5431 - Thiệt hại về tài sản đảm bảo của một cuộc chiến tranh kinh tế kéo dài
Nicholas Mulder
Bản dịch của Google
Một tàu chở dầu của Hoa Kỳ ở Rostock, Đức, tháng 8 năm 2022 Andreas Rinke / Reuters
Trong sáu tháng qua, 38 quốc gia phương Tây và châu Á đã san bằng một loạt các biện pháp trừng phạt ngày càng tăng đối với Nga. Tốc độ mà áp lực kinh tế này được áp dụng sau cuộc xâm lược Ukraine đã gieo vào lòng phương Tây sự lạc quan rộng rãi về triển vọng và khả năng dự đoán của chiến tranh kinh tế. Một kiến trúc sư của chiến lược được cho là đã “xuyên thủng nền kinh tế‘ chống lại sự trừng phạt ’của Putin”. Cùng với những thất bại của Nga trên chiến trường, các lệnh trừng phạt được coi là một phản ứng mạnh mẽ làm tăng khả năng chiến thắng của Ukraine — và thậm chí là cơ hội thay đổi chế độ ở Nga.
Nhưng mặc dù Pháo đài Nga đã bị phá vỡ, nó vẫn chưa sụp đổ hay đầu hàng. Các biện pháp kiểm soát vốn và tăng lãi suất của chính phủ Nga đã ngăn chặn một cuộc khủng hoảng tài chính và sự sụp đổ của đồng rúp. Sau khi sụt giảm ban đầu, sản lượng và xuất khẩu dầu của Nga đã phục hồi, nhờ vào sự gia tăng mua hàng từ Trung Quốc, Ấn Độ và các nước châu Á khác. Đối với các tỉnh trung tâm của đất nước, tỷ lệ thất nghiệp vẫn ở mức có thể kiểm soát được. Triển vọng dài hạn đối với Nga là một sự trì trệ kinh tế rất nghiêm trọng. Nhưng nó ít thảm khốc hơn nhiều so với tưởng tượng đầu tiên của nhiều người: ngân hàng trung ương của quốc gia này hiện dự báo về một cuộc suy thoái “kéo dài hơn trong thời gian và có lẽ ít sâu sắc hơn”.
Tuy nhiên, nếu những hy vọng lạc quan nhất của phương Tây về các lệnh trừng phạt không thành hiện thực, thì dự đoán ngược lại - rằng các lệnh trừng phạt sẽ gây ra hậu quả bất lợi thảm khốc cho các quốc gia áp đặt chúng - cũng trở nên không chính xác. Cảnh báo rằng các biện pháp trừng phạt lên tới mức độ tiếp cận quá mức của phương Tây và sẽ đẩy nhanh sự sụp đổ của đồng đô la Mỹ với tư cách là đồng tiền dự trữ của thế giới và dẫn đến sự tan rã chung của nền kinh tế toàn cầu đã được chứng minh là không chính xác: đồng đô la ngày nay mạnh hơn trước và các dòng chảy thương mại vẫn ổn định trên diện rộng.
Để giảm mức độ ảnh hưởng của họ đối với các lệnh trừng phạt và chính sách lãi suất của Hoa Kỳ, các quốc gia như Brazil, Trung Quốc, Ấn Độ, Thổ Nhĩ Kỳ và Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất đang ngày càng sử dụng các đồng tiền trong khu vực trong thương mại song phương. Tuy nhiên, điều này hầu như không làm giảm sức hấp dẫn rộng lớn hơn của đồng đô la với tư cách là một loại tiền tệ dự trữ. Hơn nữa, việc Nga trả đũa việc giảm vận chuyển khí đốt đến châu Âu, là vũ khí chỉ có thể sử dụng một lần. Lệnh cấm vận khí đốt của Điện Kremlin cuối cùng sẽ khuyến khích đa dạng hóa và chuyển sang năng lượng tái tạo, củng cố hơn là làm suy yếu an ninh năng lượng của khu vực.
Có một điểm song song đáng chú ý giữa những kỳ vọng mà Nga nuôi dưỡng cho cuộc xâm lược quân sự của mình và những gì phương Tây hy vọng các biện pháp trừng phạt kinh tế của họ sẽ đạt được: cả hai bên đều muốn đánh bại đối thủ của mình bằng một cuộc tấn công nhanh chóng, bất ngờ tạo ra sự sụp đổ ngay lập tức. Điều này rõ ràng đã không thành hiện thực. Thật vậy, cả chiến thắng gần đây của Ukraine trên chiến trường và việc Putin cuối cùng chuyển sang điều động ở Nga đều có thể báo trước một cuộc chiến lâu dài. Nga và phương Tây đều đã điều chỉnh và ngày càng trở thành mục tiêu săn lùng vũ khí kinh tế của nhau. Cuối cùng, chi phí của cuộc chiến kinh tế này sẽ chủ yếu do các nền kinh tế yếu hơn ở miền Nam toàn cầu gánh chịu. Các quốc gia thiếu bộ đệm - dù là dự trữ hàng hóa chiến lược, tính thanh khoản hay thặng dư thương mại - để thích ứng với thế giới mới của tình trạng hỗn loạn trừng phạt đặc biệt dễ bị tổn thương.
KHÔNG CÓ DỰ PHÒNG TRONG NƯỚC
Mặc dù Tổng thống Nga Vladimir Putin đã cố gắng tránh được sự sụp đổ theo kiểu Liên Xô khi đối mặt với các lệnh trừng phạt lớn, nền kinh tế Nga đã bị thiệt hại nghiêm trọng và có khả năng sẽ phải chịu đựng nhiều hơn. Người Nga có thể mong đợi sự trì trệ kinh tế và sự cô lập ngày càng tăng với phương Tây trong tương lai gần. Tuy nhiên, đó là một câu hỏi mở, liệu sự suy thoái kinh tế xã hội này có khiến người dân yêu cầu chấm dứt chiến tranh hay không, chứ chưa nói đến việc thúc đẩy chính phủ của họ giảm bớt sự xâm lược đang diễn ra đối với Ukraine. Về mặt lịch sử, các biện pháp trừng phạt có cơ hội cao nhất tạo ra sự thay đổi chính sách lớn khi một phong trào chính trị có thể hoạt động như một phương tiện để vận động quần chúng. Nhưng bất chấp một số cuộc biểu tình gần đây, nhiều năm đàn áp chính trị dữ dội đã làm giảm khả năng phản đối hiệu quả. Có lẽ điều tốt nhất có thể hy vọng là sự thiếu thốn kinh tế cuối cùng sẽ khiến chế độ của ông ta không có khả năng tiếp tục chiến tranh.
Sự vắng mặt của các phong trào đối lập đủ mạnh để hưởng lợi từ các lệnh trừng phạt giải thích lý do tại sao một số quốc gia có nền kinh tế nhỏ hơn nhiều so với Nga - chẳng hạn như Belarus, Cuba, Triều Tiên, Syria và Venezuela - đã tỏ ra khá kỵ với sức ép kinh tế kéo dài về mặt chính trị. Điều này rất quan trọng vì một số quốc gia trong số này đã hoặc đang phải chịu các lệnh trừng phạt sâu rộng hơn và được thực thi nghiêm ngặt hơn so với Nga hiện nay. Đối với các quốc gia đó, thật khó để hình dung một chiến dịch gây áp lực chống lại Nga hiện tại sẽ kết thúc nhanh chóng. Sự cương quyết của Matxcơva và sự tự tin theo đuổi chiến thắng của Ukraine có nghĩa là nếu Nga không trả lại các vùng lãnh thổ bị chiếm đóng cho Ukraine - dù bằng vũ lực hay bằng đàm phán - thì các hạn chế kinh tế có thể vẫn được duy trì.
Tất nhiên, điều đó có ý nghĩa đối với nền kinh tế toàn cầu. Điều quan trọng nhất, nó sẽ làm sâu sắc hơn nữa việc sắp xếp lại thương mại và tài chính của phương Tây khỏi Nga. Việc áp đặt các biện pháp trừng phạt đối với một nhà xuất khẩu hàng hóa lớn ban đầu đã đẩy giá năng lượng, thực phẩm và kim loại lên cao. Những gai này cuối cùng cũng giảm bớt, nhưng quá trình này rất đau đớn và khó khăn. Các nguồn cung cấp mới đã trở nên có sẵn khi dự trữ dầu của Hoa Kỳ, lúa mì Úc và khí tự nhiên Qatar được tìm thấy trên thị trường toàn cầu.
Khi rõ ràng rằng việc áp dụng các lệnh trừng phạt của châu Âu đối với xuất khẩu năng lượng của Nga sẽ chậm hơn dự kiến, áp lực lên giá dầu và khí đốt đã giảm bớt. Bằng cách giảm nhu cầu hàng hóa, kinh tế Trung Quốc giảm tốc cũng giúp giảm lạm phát. Các chính phủ G7 tiếp tục củng cố thị trường bằng cách theo đuổi giới hạn giá đối với xuất khẩu dầu của Nga thay vì cấm vận hoàn toàn. Cuối cùng, vào cuối tháng 7, một thỏa thuận xuất khẩu ngũ cốc do Liên hợp quốc và Thổ Nhĩ Kỳ tài trợ đã cho phép xuất khẩu ngũ cốc của Ukraine, giảm bớt lo lắng về tình trạng thiếu lương thực toàn cầu. Ngay cả tác động gây sốc của lệnh cấm vận khí đốt của Nga đối với giá điện của châu Âu dường như đã qua đi. Các biện pháp trừng phạt làm tăng biến động kinh tế; nhưng những cú sốc dường như không kéo dài lâu lắm.
Tóm lại, nền kinh tế thế giới đủ khả năng thích ứng để bù đắp một phần thiệt hại do một cuộc chiến tranh kinh tế kéo dài. Tuy nhiên, những can thiệp của chính phủ để giảm thiểu những tác động này là muộn màng và phức tạp, mặc dù hậu quả của việc áp đặt các biện pháp trừng phạt đối với một quốc gia xuất khẩu hàng hóa lớn là hoàn toàn có thể thấy trước được. Trong tương lai, bất kỳ biện pháp trừng phạt nào nữa phải được thực hiện với tầm nhìn xa hơn về kinh tế vĩ mô. Sự thận trọng như vậy là điều cần thiết không chỉ để tránh thiệt hại về tài sản thế chấp ở châu Phi, châu Á và châu Mỹ Latinh mà còn để duy trì sự thống nhất chính trị giữa các quốc gia đã duy trì các lệnh trừng phạt chống lại Nga.
***
Giữa những bản tin không ngừng và những câu chuyện tuyên truyền xung quanh cuộc chiến, thật khó để đánh giá tác động tổng thể của các lệnh trừng phạt của phương Tây. Vấn đề này là cố hữu của chiến tranh kinh tế: giống như kinh tế là bức tranh tổng hợp của các xu hướng đối kháng, tác động của các lệnh trừng phạt là kết quả của các lực lượng chính trị và kinh tế xung đột. Hãy xem xét hai điểm dữ liệu sau đây. Đầu tiên, xe tăng của Nga đang chạy bằng vi mạch ăn thịt từ máy giặt. Thứ hai, thống kê thương mại cho thấy xuất khẩu chip Trung Quốc sang Nga tăng 241% so với cùng kỳ năm ngoái. Cả hai sự kiện đều cung cấp những hiểu biết quan trọng về tác động phức tạp và mâu thuẫn của các biện pháp trừng phạt: một phần cho thấy thiệt hại to lớn mà chúng đang gây ra đối với cơ sở công nghiệp phụ thuộc vào nhập khẩu của Nga, phần còn lại phản ánh một quá trình điều chỉnh và chuyển hướng thương mại dần dần, không đầy đủ và khó khăn.
Do tập trung vào các điểm dễ bị tổn thương lẫn nhau, người ta dễ dàng quên rằng trong các nền kinh tế có chiến tranh, các nguồn lực thường dễ thay thế hơn dự kiến. Các nền kinh tế công nghiệp hiện đại thường chứa đựng một số sự chùng xuống có thể được sử dụng để hấp thụ các cú sốc. Đây là lý do tại sao châu Âu sẽ bị ảnh hưởng nhưng vẫn tồn tại sau lệnh cấm vận khí đốt của Nga. Thật vậy, khối “trung lập” trong nền kinh tế thế giới là chìa khóa để cung cấp các nguồn lực như vậy. Trung Quốc đang bán ô tô và máy tính cho Nga nhưng cũng hỗ trợ các chính phủ châu Âu đảm bảo lượng khí đốt bổ sung, cho thấy họ có lợi ích vật chất trong việc giúp cả hai bên trong cuộc chiến kinh tế. Cuộc bao vây kinh tế của Nga còn lâu mới hoàn thành, và tương lai của chiến dịch này sẽ ngày càng hướng đến hành động của các bên không phải phương Tây: Trung Quốc, mà còn các quốc gia châu Phi, các tiểu vương quốc, Ấn Độ, Indonesia, Ả Rập Xê-út và Thổ Nhĩ Kỳ.
Tuy nhiên, một số quốc gia trung lập thiếu khả năng phục hồi và khả năng điều chỉnh theo địa kinh tế mới. Một ví dụ quan trọng là cuộc tranh giành toàn cầu về khí đốt tự nhiên hóa lỏng. Do các nước châu Âu đã mua hầu hết nguồn cung có sẵn trên thị trường toàn cầu để bổ sung cho các kho dự trữ của họ, Bangladesh và Pakistan đã buộc phải áp dụng hình thức cắt điện trên tổng dân số 385 triệu người của họ để tiết kiệm điện. Tài chính công ở El Salvador, Ai Cập, Ghana, Sri Lanka và Tunisia cũng đang bị căng thẳng nghiêm trọng. Các tổ chức tài chính quốc tế như Ngân hàng Thế giới và Quỹ Tiền tệ Quốc tế, cùng với các chính phủ G20, nên hỗ trợ các nước này trong những tháng tới để tránh thảm họa kinh tế và nhân đạo.
Những khúc quanh của cuộc chiến kinh tế chống lại Nga cần thận trọng không đưa ra kết luận sớm hoặc sâu rộng. Nếu cuộc chiến này sớm kết thúc, đó chủ yếu sẽ là kết quả của những thành công ấn tượng của Ukraine trên chiến trường, nơi mà Kyiv có hai tài sản chính mà Moscow thiếu: quân đội được đào tạo và trang bị tốt và thông tin tình báo chính xác về đối thủ của họ. Nếu chiến dịch quân sự không có kết quả chính xác, các biện pháp trừng phạt sẽ trở nên cố hữu như một đặc điểm gần như lâu dài của quan hệ Nga-phương Tây.
Các nhà hoạch định chính sách phương Tây bắt buộc phải chuẩn bị tốt hơn cho các cuộc khủng hoảng trong tương lai do sử dụng vũ khí tài chính, công nghệ và năng lượng. Thống chế chiến trường của Phổ Helmuth von Moltke đã nói nổi tiếng rằng không có kế hoạch chiến đấu nào tồn tại được ngoài lần tiếp xúc đầu tiên với kẻ thù. Sáu tháng qua cho thấy điều này cũng áp dụng cho chiến tranh kinh tế: không có chiến lược trừng phạt nào mở rộng một cách chắc chắn ngoài cú sốc kinh tế đầu tiên mà nó gây ra.
NICHOLAS MVERER là Trợ lý Giáo sư Lịch sử tại Đại học Cornell.
https://www.foreignaffairs.com/russian-federation/collateral-damage-long-economic-war
The Collateral Damage of a Long Economic War
Andreas Rinke / ReutersA U.S. oil tanker in Rostock, Germany, August 2022A U.S. oil tanker in Rostock, Germany, August 2022
Over the last six months, 38 Western and Asian states have leveled a growing barrage of sanctions against Russia. The speed at which this economic pressure was applied after the invasion of Ukraine sowed broad optimism in the West about the prospects and predictability of economic warfare. One architect of the strategy was feted as having “pierced Putin’s ‘sanction-proof’ economy.” Together with Russian setbacks on the battlefield, sanctions were touted as a powerful response that raised the odds of a Ukrainian victory—and even the chances of regime change in Russia.
But although Fortress Russia was breached, it has so far neither collapsed nor surrendered. Capital controls and interest rate hikes by the Russian government staved off a financial crisis and the collapse of the ruble. After an initial dip, Russian oil production and exports recovered, driven by an increase in purchases from China, India, and other Asian countries. For the country’s core provinces, unemployment has remained at manageable levels. The long-term outlook for Russia is a very dire one of economic stagnation. But it is less immediately catastrophic than many first imagined: the country’s central bank now foresees a downturn “more prolonged in time and perhaps less deep.”
Yet if the most optimistic Western hopes for sanctions have not been realized, the opposite prediction—that sanctions would have catastrophically adverse consequences for the countries imposing them—also turned out to be inaccurate. Warnings that sanctions amounted to Western overreach and would accelerate the demise of the U.S. dollar as the world’s reserve currency and lead to the general disintegration of the global economy proved incorrect: the dollar is today stronger than before and trade flows have remained broadly stable.
To reduce their exposure to U.S. sanctions and interest rate policy, countries like Brazil, China, India, Turkey, and the United Arab Emirates are increasingly using regional currencies in bilateral trade. Yet this has hardly dented the dollar’s broader appeal as a reserve currency. Russia’s retaliatory reduction in gas deliveries to Europe, moreover, is a weapon that can only be used once. The Kremlin’s gas embargo will ultimately encourage diversification and a switch to renewables, fortifying rather than weakening the region’s energy security.
There is a notable parallel between the expectations that Russia harbored for its military invasion and what the West hoped its economic sanctions would achieve: both parties wanted to defeat their opponents with a quick, sudden strike producing immediate collapse. This obviously did not come to pass. Indeed, both Ukraine’s recent triumphs on the battlefield and Putin’s eventual turn to mobilization in Russia may foreshadow a long war. Russia and the West have both adjusted and become increasingly hardened targets for each other’s economic weapons. Ultimately, the costs of this economic war will be borne mainly by weaker economies in the global South. States that lack the buffers—whether strategic commodity reserves, liquidity, or trade surpluses—to adapt to the new world of sanctions turmoil are especially vulnerable.
NO DOMESTIC BACKUP
Although Russian President Vladimir Putin managed to avoid a Soviet-style collapse in the face of massive sanctions, the Russian economy has suffered severe damage and is likely to endure more. Russians can expect economic stagnation and growing isolation from the West for the foreseeable future. It is an open question, however, whether this socioeconomic deterioration will move citizens to demand an end to the war, let alone motivate their government to wind down its ongoing aggression against Ukraine. Historically, sanctions have the highest chance of producing major policy change when a political movement can act as a vehicle for popular mobilization. But despite some recent protests, years of intense political repression have reduced the possibilities for effective opposition. Perhaps the best that can be hoped is that economic deprivation will eventually render his regime materially incapable of continuing the war.
The absence of opposition movements powerful enough to benefit from sanctions explains why several states with economies much smaller than Russia’s—such as Belarus, Cuba, North Korea, Syria, and Venezuela—have proved to be fairly impervious politically to prolonged economic pressure. This is significant because several of these states were or are subject to more sweeping and strictly enforced sanctions than Russia is today. As with those nations, it is hard to envision a quick end to the current pressure campaign against Russia. Moscow’s intransigence and Ukraine’s confident pursuit of victory mean that if Russia does not return occupied territories to Ukraine—whether by force or by negotiation—economic restrictions are likely to remain in place.
That, of course, has implications for the global economy. Most important, it will further deepen the realignment of Western trade and finance away from Russia. The imposition of sanctions on a major commodity exporter initially drove up energy, food, and metals prices. These spikes ultimately subsided, but the process was painful and difficult. New sources of supply became available as U.S. oil reserves, Australian wheat, and Qatari natural gas found their way onto global markets.
When it became clear that the rollout of European sanctions on Russian energy exports would be slower than expected, pressure on oil and gas prices abated. By reducing demand for commodities, China’s economic slowdown helped lower inflation as well. G7 governments further assuaged markets by pursuing a price cap on Russian oil exports instead of a full embargo. Finally, in late July, a UN- and Turkish-sponsored grain export deal allowed for the release of Ukrainian grain, reducing worries about a global food shortage. Even the shock effect of the Russian gas embargo on Europe’s electricity prices already seems to have passed. Sanctions increase economic volatility; but the shocks do not seem to last very long.
In sum, the world economy is adaptable enough to partly offset the damage caused by a prolonged economic war. Government interventions to mitigate these effects were, however, belated and haphazard, even though the consequences of imposing sanctions on a major commodity-exporting country were entirely foreseeable. Going forward, any further sanctions must be implemented with greater macroeconomic foresight. Such prudence is essential not only to avoid collateral damage in Africa, Asia, and Latin America but also to preserve political unity among the countries already maintaining sanctions against Russia.
HARD TO TELL
Amid the incessant news reports and propaganda narratives surrounding the war, it has been difficult to gauge the overall impact of Western sanctions. This problem is inherent to economic warfare: just as the economy is a composite picture of countervailing trends, the effects of sanctions are the result of conflicting political and economic forces. Consider the following two data points. First, Russian tanks are running on microchips cannibalized from washing machines. Second, trade statistics show a 241 percent year-on-year increase in Chinese chip exports to Russia. Both facts provide important insights into the complex and contradictory effects of sanctions: one shows the enormous damage that they are doing to Russia’s import-dependent industrial base while the other reflects a gradual, incomplete, and difficult process of adjustment and trade diversion.
Given the focus on mutual vulnerabilities, it is easy to forget that in war economies, resources are often more fungible than expected. Modern industrial economies usually contain some slack that can be used to absorb shocks. This is why Europe will suffer but survive the Russian gas embargo. Indeed, the “neutral” bloc in the world economy is key to furnishing such resources. China is selling cars and computers to Russia but also aiding European governments in securing additional gas, showing that it has a material interest in helping both sides in the economic war. The economic siege of Russia is far from complete, and the future of this campaign will increasingly turn on the actions of non-Western actors: China, but also African states, the emirates, India, Indonesia, Saudi Arabia, and Turkey.
Yet some neutral states lack the resilience and ability to adjust to the new geo-economics. An important example is the global scramble for liquefied natural gas. As European countries have bought up most of the available supply on global markets to restock their storage depots, Bangladesh and Pakistan have been forced to impose rolling blackouts on their combined population of 385 million to save electricity. Public finances in El Salvador, Egypt, Ghana, Sri Lanka, and Tunisia are also under severe strain. International financial institutions such as the World Bank and International Monetary Fund, along with G20 governments, should offer assistance to these countries in the months ahead to avoid economic and humanitarian disaster.
The twists and turns of the economic war against Russia caution against drawing premature or sweeping conclusions. If this war ends soon, that would be primarily the result of Ukraine’s impressive successes on the battlefield, where Kyiv has two major assets that Moscow lacks: well-trained and equipped troops and accurate intelligence about its opponent. If the military campaign does not have a conclusive outcome, sanctions will become entrenched as a quasi-permanent feature of Russian-Western relations.
It is imperative that Western policymakers prepare better for future crises caused by the use of financial, technological, and energy weapons. The Prussian field marshal Helmuth von Moltke famously said that no battle plan survives beyond its first contact with the enemy. The last six months have shown that this applies to economic warfare, too: no sanctions strategy extends with certainty beyond the first economic shock that it triggers.
- NICHOLAS MULDER is an Assistant Professor of History at Cornell University.
Nhận xét
Đăng nhận xét