3156 - Cách Sống Sót Trong Kỷ Nguyên Hạt Nhân Mới
Vipin Narang and Pranay Vaddi
An Ninh Quốc Gia Trong Một Thế Giới Với Rủi Ro Gia Tăng Và Những Ràng Buộc Đang Mòn
Vào năm 2009, khi Tổng thống Hoa Kỳ Barack Obama nhậm chức, vũ khí hạt nhân ngày càng trở nên thừa thãi. Khi Chiến tranh Lạnh dần đi vào lịch sử, Moscow và Washington, hai siêu cường hạt nhân của thế giới, đã hợp tác với nhau trong một thời gian dài để cắt giảm kho vũ khí của họ. Đồng thời, sau nhiều năm chiến tranh thông thường kéo dài ở Afghanistan và Iraq và "cuộc chiến chống khủng bố" rộng lớn hơn, cơ quan quốc phòng Hoa Kỳ bận tâm nhiều hơn đến chống khủng bố và chống nổi loạn hơn là chiến lược hạt nhân và sự cạnh tranh giữa các cường quốc.
Quan niệm rằng bất kỳ quốc gia nào khác sẽ cố gắng đạt được sự ngang bằng về hạt nhân với Nga và Hoa Kỳ có vẻ xa vời, và các nhà lãnh đạo Hoa Kỳ đều rất vui khi trì hoãn việc tân trang tốn kém cho kho vũ khí cũ kỹ của Hoa Kỳ. Sự đồng thuận mạnh mẽ đến mức vũ khí hạt nhân là di tích của kỷ nguyên trước đó đến nỗi bốn cựu quan chức an ninh quốc gia hàng đầu—Henry Kissinger, George Shultz, Sam Nunn và William Perry, không một ai trong số họ là người ôn hòa—đã công khai kêu gọi “chấm dứt” vũ khí hạt nhân “như một mối đe dọa đối với thế giới”.
Một thập kỷ rưỡi sau, mọi thứ không thể khác hơn. Hoa Kỳ hiện đang phải đối mặt với cơn bão cấp 5 về các mối đe dọa hạt nhân. Sau nhiều thập kỷ chỉ duy trì năng lực hạt nhân tối thiểu, Trung Quốc đang trên đà tăng gần gấp năm lần kho dự trữ năm 2019 của mình với khoảng 300 đầu đạn hạt nhân vào năm 2035, trong nỗ lực đạt được sức mạnh tương đương với kho vũ khí của Nga và Hoa Kỳ. Nga không hề là đối tác trong việc cắt giảm vũ khí, mà còn sử dụng mối đe dọa từ vũ khí hạt nhân làm lá chắn cho hành động xâm lược của mình ở Ukraine. Trong khi đó, Triều Tiên tiếp tục mở rộng kho vũ khí của mình, hiện bao gồm các tên lửa có khả năng tấn công lục địa Hoa Kỳ. Iran đang tiến gần hơn bao giờ hết đến việc sản xuất vũ khí hạt nhân. Vào tháng 5, thế giới đã chứng kiến Ấn Độ và Pakistan, hai cường quốc sở hữu vũ khí hạt nhân, tấn công vào vùng đất trung tâm của nhau bằng vũ khí thông thường sau một cuộc tấn công khủng bố, một cuộc đối đầu mà — vốn chưa từng có — có thể leo thang thành một cuộc chiến hạt nhân.
Những mối đe dọa ngày càng gia tăng này không chỉ đưa chiến lược hạt nhân trở lại trọng tâm trong mối quan tâm quốc phòng của Hoa Kỳ; chúng còn gây ra những vấn đề mới. Chưa bao giờ Hoa Kỳ phải ngăn chặn và bảo vệ các đồng minh của mình khỏi nhiều đối thủ là cường quốc sở hữu vũ khí hạt nhân cùng một lúc. Giống như Nga, cả Trung Quốc và Triều Tiên đều có thể tích hợp vũ khí hạt nhân vào kế hoạch tấn công, tìm kiếm lá chắn hạt nhân để có thể xâm lược thông thường chống lại các nước láng giềng không có vũ khí hạt nhân. Hơn nữa, có khả năng ngày càng tăng rằng hai hoặc nhiều cường quốc hạt nhân — ví dụ như Trung Quốc và Nga, hoặc Triều Tiên và Nga — có thể cố gắng đồng bộ hóa hành động xâm lược quân sự chống lại các nước láng giềng của họ, kéo dài khả năng răn đe hạt nhân của Hoa Kỳ vượt quá khả năng của mình. Cuối cùng, sự xói mòn nhanh chóng của các rào cản hạt nhân, cấu trúc ngoại giao trong nhiều thập kỷ đã hạn chế sự phổ biến và mang lại an ninh cho hàng chục quốc gia nằm dưới sự bảo vệ hạt nhân của Hoa Kỳ, đã thúc đẩy một số đồng minh châu Á và châu Âu cân nhắc việc sở hữu vũ khí hạt nhân của riêng họ. Tất cả những điều này đã xảy ra trong thời đại mà kho vũ khí hạt nhân lỗi thời của Hoa Kỳ đã rơi vào tình trạng hư hỏng, với những nỗ lực hiện đại hóa đang diễn ra bị trì hoãn và chi phí vượt mức tràn lan.
Cơn bão hạt nhân sắp tới này đặt ra những thách thức sâu rộng. Lần đầu tiên kể từ khi Chiến tranh Lạnh kết thúc, Washington sẽ cần phát triển nhiều năng lực hạt nhân hơn, khác biệt hơn và tốt hơn, đồng thời bắt đầu triển khai chúng theo những cách mới. Với quy mô của vấn đề, các mối quan ngại về hạt nhân không còn có thể được coi là vấn đề riêng do một cộng đồng chuyên gia nhỏ quản lý nữa. Các quan chức ở cấp cao nhất của chính phủ sẽ cần đưa chúng vào chính sách quốc phòng cốt lõi tại mỗi chiến trường lớn có lợi ích sống còn đối với Hoa Kỳ: Châu Âu, Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương và Trung Đông. Đồng thời, Quốc hội sẽ cần ủng hộ nỗ lực đẩy nhanh việc cải tổ kho vũ khí của Hoa Kỳ bằng nguồn tài trợ đáng kể và ưu tiên khẩn cấp cho dự án này, để có thể giải quyết không chỉ môi trường đe dọa đang thay đổi của ngày hôm nay mà còn của ngày mai. Trên hết, để Hoa Kỳ có thể xử lý hiệu quả một trật tự hạt nhân cực kỳ bất ổn và thay đổi nhanh chóng, các vấn đề hạt nhân một lần nữa phải trở thành một phần trung tâm trong chiến lược lớn của Hoa Kỳ.
VỞ DIỄN LỚN CỦA TRUNG QUỐC
Sự thay đổi quan trọng nhất trong bối cảnh vũ khí hạt nhân toàn cầu là quyết tâm trở thành cường quốc hạt nhân của Trung Quốc. Cho đến tận năm 2019, kho vũ khí nhỏ của Trung Quốc hầu như không được đưa vào chiến lược hạt nhân của Hoa Kỳ. Sau lần thử vũ khí hạt nhân đầu tiên vào năm 1964, Bắc Kinh đã tìm kiếm năng lực hạt nhân hầu như chỉ nhằm mục đích phòng thủ và có thể ngăn chặn Hoa Kỳ (hoặc Liên Xô) khỏi các cuộc tấn công hạt nhân và "tống tiền". Để đạt được những mục tiêu hạn chế này, Bắc Kinh đã duy trì một số ít tên lửa đạn đạo liên lục địa chưa tiếp nhiên liệu và cất giữ các đầu đạn riêng biệt - một sự sắp xếp mất nhiều giờ, có thể là nhiều ngày, để chuẩn bị phóng ICBM. Tư thế này cho phép áp dụng chiến lược chỉ trả đũa, kèm theo lời cam kết "không sử dụng trước" với thế giới. Do đó, các nhà chiến lược của Hoa Kỳ, trong cả Chiến tranh Lạnh và sau đó, đã có thể gạt lực lượng hạt nhân của Trung Quốc sang một bên như một "trường hợp ít được bao gồm hơn" và tập trung vào việc ngăn chặn Liên Xô và nước kế nhiệm là Nga.
Tuy nhiên, vào một thời điểm nào đó trong thập kỷ qua, nhà lãnh đạo Trung Quốc Tập Cận Bình đã ra lệnh mở rộng đáng kinh ngạc kho vũ khí hạt nhân của đất nước mình. Cùng với hàng trăm hầm ICBM mới, lực lượng mới sẽ bao gồm tên lửa đạn đạo năng suất thấp trong khu vực (và có thể là tên lửa hành trình), hệ thống phóng siêu thanh, hệ thống phóng đầu đạn quỹ đạo được thiết kế để tránh hệ thống phòng thủ tên lửa của Hoa Kỳ và một lực lượng răn đe trên tàu ngầm đang mở rộng được thiết kế để tồn tại sau cuộc tấn công hạt nhân đầu tiên. Hơn nữa, Bắc Kinh đang xây dựng kho vũ khí này thậm chí còn nhanh hơn dự kiến ban đầu của Washington: chỉ trong năm năm, họ đã tăng gấp đôi số lượng đầu đạn hoạt động lên 600, con số này ước tính sẽ đạt 1.000 vào năm 2030 và có thể là 1.500 vào năm 2035. Do đó, Hoa Kỳ có thể sớm phải đối mặt không chỉ một mà là hai cường quốc đối địch với lực lượng hạt nhân chiến lược lớn và đa dạng tương đương với mình.
Sự trỗi dậy hạt nhân của Trung Quốc đặt ra một tình thế tiến thoái lưỡng nan phức tạp cho các nhà hoạch định của Hoa Kỳ. Kể từ buổi bình minh của kỷ nguyên hạt nhân, chiến lược hạt nhân của Hoa Kỳ đã tập trung vào việc thuyết phục bất kỳ đối thủ nào rằng không có con đường khả thi nào để sử dụng vũ khí hạt nhân để đạt được các mục tiêu chính trị-quân sự chống lại Hoa Kỳ hoặc bất kỳ đồng minh nào của Hoa Kỳ. Chiến lược này có ba phần. Đầu tiên và quan trọng nhất, kho vũ khí của Hoa Kỳ phải có khả năng sống sót sau đòn tấn công đầu tiên và áp đặt sự hủy diệt chắc chắn lên kẻ tấn công để trả đũa cho đòn tấn công đó. Thứ hai, trong phạm vi có thể, cần phải có khả năng hạn chế có ý nghĩa lượng thiệt hại mà kẻ tấn công có thể gây ra cho Hoa Kỳ và các đồng minh của mình. Để làm được điều này, Hoa Kỳ phải duy trì khả năng phá hủy càng nhiều vũ khí hạt nhân của kẻ tấn công càng tốt trước hoặc sau khi chúng được phóng, một nguyên tắc được gọi là nhắm mục tiêu phản công. Do đó, ngoài các lựa chọn hạt nhân khu vực linh hoạt có thể quản lý được sự leo thang, Washington cần các lực lượng hạt nhân chiến lược có trụ sở tại Hoa Kỳ có độ chính xác cao, có thể đe dọa phá hủy kho vũ khí tầm xa của đối phương, để ngăn chặn một cuộc chiến tranh hạn chế - trong đó một hoặc hai vũ khí hạt nhân có thể được trao đổi trên chiến trường như một bước leo thang trong một cuộc xung đột thông thường dữ dội - khỏi biến thành một cuộc chiến tranh hủy diệt hơn nhiều. Khả năng hạn chế thiệt hại là một yêu cầu cốt lõi của chiến lược răn đe của Hoa Kỳ và sự đảm bảo hạt nhân của Hoa Kỳ đối với các đồng minh - rằng Hoa Kỳ có thể cứu Berlin mà không mất Boston. Thứ ba, kho vũ khí của Hoa Kỳ cần phải đủ lớn và có khả năng sống sót để duy trì đủ khả năng hạt nhân sau một cuộc trao đổi ban đầu nhằm ngăn chặn các cuộc tấn công tiếp theo của một đối thủ yếu hơn hoặc hành động xâm lược cơ hội của một trong những quốc gia có vũ khí hạt nhân nhỏ hơn. Tuy nhiên, một lực lượng hạt nhân được thiết kế để đáp ứng ba mục tiêu này chỉ liên quan đến Nga, như kho vũ khí của Hoa Kỳ hiện tại, sẽ không đủ để làm như vậy đối với cả Trung Quốc và Nga cùng một lúc.
Thêm vào vấn đề này là thành phần cụ thể của kho vũ khí mới của Bắc Kinh. Nếu sự bành trướng hạt nhân của Tập tập trung vào việc xây dựng lực lượng hạt nhân có khả năng sống sót - ví dụ, bằng cách đặt nhiều đầu đạn hơn trên tàu ngầm tên lửa đạn đạo - thì các nhà chiến lược Hoa Kỳ chủ yếu cần tập trung vào việc tăng cường các công cụ chống tàu ngầm. Nhưng Tập cũng đã chọn xây dựng hàng trăm silo mới cho ICBM trên đất liền, có thể được phóng trong vòng vài phút để tàn phá quê hương Hoa Kỳ - một tư thế dường như được thiết kế để phá vỡ chiến lược của Hoa Kỳ. Để Hoa Kỳ có thể hạn chế đáng tin cậy thiệt hại từ Trung Quốc, họ sẽ cần phải tính đến từng silo mới. Hơn nữa, Hoa Kỳ không thể cho rằng, như một số người đã lập luận, Bắc Kinh chỉ muốn có khả năng trả đũa chắc chắn đáng tin cậy hơn. Bằng cách mua ICBM mới và vũ khí tầm ngắn có năng suất thấp hơn, họ có thể thay đổi cơ bản định hướng chiến lược hạt nhân của mình. Ví dụ, Trung Quốc có thể sử dụng vũ khí có năng suất thấp "tại chỗ" trong một cuộc chiến chống lại các lực lượng thông thường, cho dù trên chiến trường hay để ngăn chặn Hoa Kỳ sử dụng các khả năng tương tự nếu một cuộc tấn công của Trung Quốc gây nguy hiểm cho các lực lượng thông thường của Hoa Kỳ. Các ICBM mới cũng có thể giúp Trung Quốc chống lại khả năng đe dọa leo thang chiến lược của Hoa Kỳ. Với số lượng các hầm ICBM mới của Trung Quốc và sự phân bố địa lý của chúng, cùng với sự chuyển dịch tiềm tàng của Trung Quốc sang một chiến lược cho phép cưỡng ép khu vực, Hoa Kỳ có thể sẽ cần một kho vũ khí hạt nhân lớn hơn và khác biệt để có thể ngăn chặn cả Trung Quốc và Nga trong các cuộc khủng hoảng kép.
NGUY HIỂM Ở MỌI GÓC
Để làm cho vấn đề tồi tệ hơn, sự nổi lên của Trung Quốc như một quốc gia sở hữu vũ khí hạt nhân lớn diễn ra vào thời điểm Nga và các cường quốc hạt nhân nhỏ hơn khác bắt đầu sử dụng kho vũ khí của họ theo những cách nguy hiểm và gây bất ổn hơn nhiều. Trong những năm gần đây, Moscow không chỉ phá vỡ hầu hết mọi thỏa thuận kiểm soát vũ khí với Washington mà còn đưa ra các mối đe dọa hạt nhân rõ ràng đối với phương Tây. Ví dụ, vào mùa thu năm 2022, khi mặt trận của Nga ở miền nam Ukraine có nguy cơ sụp đổ, các mối đe dọa hạt nhân của Nga đã có một bước tiến mới khi các nhà lãnh đạo cấp cao của nước này thảo luận một cách đáng tin cậy về việc sử dụng vũ khí hạt nhân năng suất thấp để tránh thất bại thông thường. Cộng đồng tình báo Hoa Kỳ đánh giá rằng khả năng sử dụng như vậy cao hơn bất kỳ thời điểm nào kể từ cuộc khủng hoảng tên lửa Cuba - một "cú tung đồng xu", như một phụ tá của Tổng thống Hoa Kỳ Joe Biden đã nói. Chính quyền Biden đã khẩn trương thuyết phục Putin rằng việc sử dụng vũ khí hạt nhân sẽ gây ra "hậu quả thảm khốc", và Putin đã quyết định không thử thách quyết tâm của phương Tây - lần này.
Tuy nhiên, mối đe dọa đã làm rõ lợi ích của Moscow trong cuộc xung đột và buộc Hoa Kỳ và các đồng minh phải cân nhắc cẩn thận những rủi ro leo thang khi cung cấp viện trợ quân sự cho Ukraine. Hơn nữa, không có khoảnh khắc "kẻ kia chớp mắt", như Ngoại trưởng Hoa Kỳ Dean Rusk đã tuyên bố khi mô tả việc Liên Xô lùi bước để chấm dứt cuộc khủng hoảng tên lửa Cuba: mối đe dọa sử dụng vũ khí hạt nhân của Nga có thể đã giảm bớt sau cuộc khủng hoảng năm 2022, nhưng các điều kiện tạo ra nó vẫn tồn tại và gia tăng. Kể từ đó, Điện Kremlin đã đình chỉ hiệp ước New START năm 2010 - hiệp ước đã đưa kho vũ khí của Hoa Kỳ và Nga xuống mức thấp nhất trong 60 năm. Họ cũng đã sửa đổi học thuyết hạt nhân của mình, làm rõ rằng họ sẽ xem xét nhắm mục tiêu vào các quốc gia có vũ khí hạt nhân, chẳng hạn như Pháp, Vương quốc Anh và Hoa Kỳ, những quốc gia cung cấp viện trợ cho một bên hiếu chiến phi hạt nhân đang có chiến tranh với Nga, chẳng hạn như Ukraine. Putin đã bắt đầu triển khai vũ khí hạt nhân của Nga ở nước láng giềng Belarus và các quan chức Hoa Kỳ đánh giá rằng Nga có thể có một kế hoạch liều lĩnh là đưa vũ khí hạt nhân vào không gian.
Bất chấp sự đe dọa của Nga, Washington và các đồng minh châu Âu đã tuyên bố hỗ trợ quân sự mở rộng hơn cho Kyiv, bao gồm F-16, đạn dược mới và tên lửa cho phép tấn công tầm xa vào Crimea và vào lãnh thổ Nga. Hoa Kỳ và các đồng minh NATO cũng đình chỉ việc tuân thủ Hiệp ước về các lực lượng vũ trang thông thường ở châu Âu sau khi Nga rút quân vào năm 2023, một bước đi cho phép nhiều lực lượng hơn của Hoa Kỳ, NATO và các lực lượng khác được đồn trú gần biên giới Nga hơn nếu cần thiết. Trong bối cảnh Nga gia tăng hùng biện về hạt nhân và cả hai bên đều ngày càng chấp nhận rủi ro, mối đe dọa hạt nhân đã trở thành một đặc điểm thường trực của cuộc xung đột. Hơn nữa, chiến lược của Nga ở Ukraine đã cung cấp một sổ tay hướng dẫn khả thi không chỉ cho Trung Quốc mà còn cho Triều Tiên để sử dụng mối đe dọa tấn công hạt nhân làm lá chắn để cho phép xâm lược khu vực ngày càng tham vọng hơn.
Thật vậy, sự phức tạp của bối cảnh hạt nhân mới nổi vượt xa Trung Quốc đang trỗi dậy và nước Nga theo chủ nghĩa xét lại. Nhà lãnh đạo Triều Tiên Kim Jong Un đang liên tục mở rộng kho vũ khí hạt nhân của đất nước mình, dường như không quan tâm đến những nỗ lực của chính quyền Trump nhằm giảm căng thẳng hạt nhân để đổi lấy việc nới lỏng lệnh trừng phạt. Trong những năm gần đây, cùng với thế hệ ICBM mới hơn có khả năng vươn tới lãnh thổ Hoa Kỳ, Triều Tiên đã bổ sung đủ vũ khí hạt nhân khu vực vào kho vũ khí của mình để ngăn chặn một cuộc tấn công kết hợp của Hoa Kỳ và Hàn Quốc. Các chiến lược gia của Triều Tiên muốn thuyết phục Washington rằng họ không nên mạo hiểm San Francisco để bảo vệ Seoul—mà nên từ bỏ Hàn Quốc để tự lo liệu. Trong khi đó, Iran tiếp tục thúc đẩy chương trình hạt nhân của mình, rút ngắn thời gian cần thiết để chạy nước rút đến một vũ khí xuống còn có thể là vài ngày. Bị suy yếu do mạng lưới lực lượng ủy nhiệm của mình bị phá vỡ trong 18 tháng qua, nước này cũng có thể cảm thấy cấp bách hơn bao giờ hết trong việc vũ khí hóa năng lực hạt nhân của mình. Nếu Israel và Hoa Kỳ kết luận rằng chế độ Iran sắp vượt qua ngưỡng đó, họ có thể cảm thấy buộc phải phát động một cuộc tấn công phòng ngừa, có khả năng gây ra một cuộc chiến tranh khu vực gây bất ổn. Mặc dù chính quyền Trump đã tuyên bố rằng họ sẵn sàng ký một thỏa thuận hạt nhân mới với Iran, nhưng việc đạt được tiến triển sẽ không dễ dàng. Quá nhiều áp lực có thể phản tác dụng, khiến những người theo đường lối cứng rắn của Iran thúc đẩy việc nhanh chóng chế tạo vũ khí. Nhưng sự sẵn sàng thỏa hiệp có thể khiến Tehran tiếp tục tiến triển bí mật, chậm rãi hướng tới vũ khí, tạo tiền đề cho cuộc chiến tranh trong tương lai.
Một mối đe dọa khác đến từ Pakistan. Mặc dù Pakistan tuyên bố chương trình hạt nhân của họ chỉ tập trung vào việc ngăn chặn Ấn Độ, quốc gia có ưu thế quân sự thông thường, các cơ quan tình báo Hoa Kỳ đã kết luận rằng quân đội Pakistan đang phát triển một ICBM có thể vươn tới lục địa Hoa Kỳ. Khi có được khả năng như vậy, Pakistan có thể đang tìm cách ngăn chặn Hoa Kỳ cố gắng loại bỏ kho vũ khí của mình trong một cuộc tấn công phòng ngừa hoặc can thiệp thay mặt cho Ấn Độ trong một cuộc xung đột Ấn Độ-Pakistan trong tương lai. Bất kể thế nào, như các quan chức Hoa Kỳ đã lưu ý, nếu Pakistan có được ICBM, Washington sẽ không còn lựa chọn nào khác ngoài việc coi quốc gia này là đối thủ hạt nhân - không quốc gia nào khác có ICBM có thể nhắm mục tiêu vào Hoa Kỳ được coi là bạn. Tóm lại, các mối nguy hiểm hạt nhân ngày càng gia tăng hiện đang rình rập ở mọi khu vực có lợi ích sống còn đối với Hoa Kỳ.
KẺ BẮT NẠT HẠT NHÂN, CÁC ĐỒNG MINH LO LẮNG
Mặc dù mỗi kẻ thù hạt nhân đang trỗi dậy này đều đặt ra một thách thức riêng, nhưng khả năng phối hợp hoặc thông đồng giữa chúng thậm chí còn đáng lo ngại hơn. Ví dụ, để hỗ trợ cuộc chiến của Nga ở Ukraine, Iran đã cung cấp cho quân đội Nga máy bay không người lái; Triều Tiên đã cung cấp ít nhất 14.000 binh lính và một lượng lớn đạn dược và đã củng cố "quan hệ đối tác chiến lược toàn diện" với Nga. Ngoài việc trao cho Triều Tiên quyền phủ quyết đáng tin cậy của Nga tại Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc chống lại bất kỳ lệnh trừng phạt toàn cầu bổ sung nào, trục Moscow-Bình Nhưỡng đang phát triển có nghĩa là một cuộc xung đột trên Bán đảo Triều Tiên có thể lôi kéo Trung Quốc, Nga và Hoa Kỳ vào cuộc, mỗi bên đều ủng hộ đồng minh tương ứng của mình—tạo ra một cơn ác mộng hạt nhân thực sự.
Tuy nhiên, mối quan tâm lớn nhất cho đến nay là sự liên kết ngày càng tăng của Trung Quốc và Nga. Theo một nghiên cứu của Trung tâm Carnegie về Nga và Âu Á, vào năm 2023, Trung Quốc đã cung cấp cho Nga khoảng 90 phần trăm lượng hàng hóa nhập khẩu nằm trong danh sách kiểm soát xuất khẩu ưu tiên cao của G-7. Lấp đầy khoảng cách nhập khẩu lớn, chuỗi cung ứng của Trung Quốc này đã giúp Nga duy trì nền kinh tế chiến tranh và nhanh chóng tái thiết các năng lực thông thường đã cạn kiệt của mình. Đổi lại, Nga đã giúp Trung Quốc trong các lĩnh vực quân sự chiến lược như không gian, phòng thủ tên lửa và công nghệ cảnh báo sớm - bao gồm một hệ thống có thể phát hiện cuộc tấn công tên lửa của đối phương từ bất kỳ đâu trên toàn cầu, một khả năng mà chỉ Nga và Hoa Kỳ sở hữu.
Thật vậy, các nhà hoạch định quốc phòng Hoa Kỳ hiện phải cân nhắc khả năng Bắc Kinh và Moscow có thể cố gắng đồng bộ hóa hành động xâm lược chống lại các nước láng giềng của họ để hạn chế hơn nữa khả năng phản ứng của Hoa Kỳ. Ví dụ, nếu Trung Quốc tấn công Đài Loan trong khi Nga đang tấn công Đông Âu, lực lượng Hoa Kỳ sẽ bị chia cắt và căng mỏng. Về mặt giả thuyết, nếu không ngăn được Nga sử dụng vũ khí hạt nhân để thúc đẩy các mục tiêu khu vực của Moscow, Hoa Kỳ có thể cần phải đáp trả bằng cách sử dụng vũ khí hạt nhân, và có khả năng là bằng một cuộc trao đổi hạt nhân lớn hơn nếu không thể tái lập khả năng răn đe hạt nhân ở châu Âu. Trong tình huống như vậy, với khả năng răn đe chung của Hoa Kỳ bị suy yếu, Trung Quốc có thể lợi dụng thời điểm này để phát động một cuộc tấn công thông thường vào các nước láng giềng, hoặc thậm chí được khuyến khích sử dụng vũ khí hạt nhân để ngăn chặn Hoa Kỳ. Đối mặt với động lực hai cuộc chiến này, với kho vũ khí hiện tại của Hoa Kỳ, một tổng thống Hoa Kỳ có thể buộc phải lùi bước trong một hoặc cả hai cuộc chiến, với hậu quả thảm khốc đối với an ninh của Hoa Kỳ và toàn cầu.
Chiến lược hạt nhân tấn công của Nga tại Ukraine là một chiến thuật cho Trung Quốc và Triều Tiên.
Giữa những diễn biến bất ổn này, một số quốc gia phi hạt nhân—bao gồm cả các đồng minh của Washington lần đầu tiên trong thế kỷ này—đang cân nhắc phát triển kho vũ khí hạt nhân của riêng họ. Trong nhiều thập kỷ, một trụ cột chính của chiến lược hạt nhân của Hoa Kỳ là mở rộng khả năng răn đe hạt nhân của Hoa Kỳ cho ít nhất 34 đồng minh chính thức trên hai đại dương rộng lớn, một trách nhiệm mà không cường quốc nào khác đảm nhận. Chính sách này ra đời không phải vì lòng vị tha mà vì lợi ích cá nhân: Hoa Kỳ và khả năng răn đe tập thể của nước này mạnh hơn nhờ địa lý, năng lực và sự thống nhất chính trị mà các đồng minh cung cấp. Ít cường quốc hạt nhân hơn có nghĩa là ít cơ hội sử dụng hạt nhân hơn, một mục tiêu cũng cho phép Washington tập trung quyền ra quyết định của liên minh dưới sự chỉ huy của mình.
Tuy nhiên, với những thay đổi nhanh chóng trong cả môi trường hạt nhân toàn cầu và chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ, một số đồng minh của Hoa Kỳ đã bắt đầu đặt câu hỏi về khả năng và thiện chí mở rộng khả năng răn đe của Washington. Hàn Quốc—lo lắng về việc Hoa Kỳ từ bỏ—hiện có nhiều khả năng tham gia vào hoạt động phổ biến vũ khí hạt nhân, mặc dù một số cường quốc NATO cũng có thể là ứng cử viên. Ở châu Âu, kho vũ khí hạt nhân của Vương quốc Anh và Pháp có thể bù đắp phần nào cho sự tham gia giảm sút của Hoa Kỳ. Nhưng các lực lượng này, ngay cả khi kết hợp với các năng lực phi hạt nhân bổ sung, cũng không được định vị để hạn chế thiệt hại mà Nga có thể gây ra cho các đồng minh và do đó không thể thay thế đáng tin cậy chiếc ô hạt nhân do Hoa Kỳ cung cấp. Do đó, các quốc gia như Ba Lan hoặc thậm chí là Đức có thể quyết định tìm kiếm vũ khí hạt nhân của riêng họ nếu họ tin rằng Hoa Kỳ không còn muốn hoặc không có khả năng bảo vệ họ nữa.
Sự xuất hiện của nhiều cường quốc hạt nhân hơn, bất kể họ có phải là đồng minh của Hoa Kỳ hay không, sẽ mở ra chiếc hộp Pandora mà Washington đã đấu tranh trong nhiều thập kỷ để giữ kín. Một điều nữa là các cường quốc hạt nhân mà các quốc gia này đang tìm cách ngăn chặn - Trung Quốc, Nga và Triều Tiên - có thể quyết định xóa sổ bất kỳ chương trình hạt nhân mới nổi nào trong một cuộc tấn công phòng ngừa. Và ngay cả khi một đồng minh của Hoa Kỳ thành công trong việc có được vũ khí hạt nhân, kho vũ khí nhỏ của họ sẽ trở nên dễ bị tổn thương trước các đối thủ mạnh hơn khi các đảm bảo an ninh của Hoa Kỳ mờ nhạt, dẫn đến tình trạng bất ổn ngày càng gia tăng. Hãy xem xét Nam Á, nơi Ấn Độ và Pakistan tiếp tục tham gia vào các cuộc tấn công thông thường ngày càng dữ dội bất chấp mối đe dọa sử dụng vũ khí hạt nhân luôn hiện hữu, thử thách giới hạn của cái gọi là nghịch lý ổn định-bất ổn, trong đó sự tồn tại của sự ổn định hạt nhân giữa hai quốc gia thực sự có thể làm tăng khả năng xảy ra xung đột thông thường. Hơn nữa, nếu một đồng minh của Hoa Kỳ - chẳng hạn như Hàn Quốc - phát triển vũ khí hạt nhân, thì có khả năng họ sẽ khuyến khích những nước khác, chẳng hạn như Nhật Bản, nhanh chóng làm theo. Điều này sẽ giáng một đòn chí mạng vào Hiệp ước Không phổ biến vũ khí hạt nhân vốn đã mong manh, vốn trong nhiều thập kỷ đã đóng vai trò là lực cản quan trọng đối với sự lan truyền vũ khí hạt nhân. Việc giữ cho các đồng minh không có vũ khí hạt nhân và bảo vệ hiệp ước là lợi ích cốt lõi của Hoa Kỳ - nếu không muốn nói là để ngăn chặn các quốc gia khác bắt đầu và kéo Washington vào các cuộc chiến tranh hạt nhân mà Hoa Kỳ phải kết thúc.
MỘT TRÒ CHƠI KHÔNG CÓ LUẬT
Trong số những sự thật đáng chú ý về trật tự hạt nhân trong những thập kỷ trước là việc tuân thủ chung các rào cản chính thức và không chính thức để hạn chế sự phát triển, lan truyền và sử dụng vũ khí hạt nhân. Ngay cả ở thời kỳ đỉnh cao của Chiến tranh Lạnh, Liên Xô và Hoa Kỳ đã thấy lợi ích chung trong việc kiểm soát vũ khí chiến lược có thể xác minh được. Và sau các cuộc đàm phán thành công về việc định hình và hạn chế kho vũ khí của họ trong các cuộc Đàm phán hạn chế vũ khí chiến lược của những năm 1970, hai nước đã bắt đầu một loạt các thỏa thuận để cắt giảm đáng kể vũ khí quân sự của họ, từ Hiệp ước Lực lượng hạt nhân tầm trung Hoa Kỳ-Liên Xô năm 1987 đến Hiệp ước START mới Hoa Kỳ-Nga năm 2010. Theo cách này, các nước đã quản lý việc cắt giảm ổn định và đột ngột lực lượng của họ từ đỉnh cao của cuộc cạnh tranh quân sự Chiến tranh Lạnh.
Ngày nay, những hạn chế này đang sụp đổ. Dưới thời Putin, Moscow đã từ bỏ một phần hoặc toàn bộ nhiều thỏa thuận trước đó và Bắc Kinh vẫn tiếp tục từ chối thảo luận về giới hạn vũ khí khi họ nhanh chóng mở rộng kho vũ khí của mình. Việc hết hạn của START mới vào năm 2026, hạn chế Nga và Hoa Kỳ ở mức 1.550 đầu đạn hạt nhân được triển khai trên các hệ thống phân phối liên lục địa, có thể là một điểm uốn quan trọng. Nếu không có thỏa thuận kế nhiệm, Hoa Kỳ có thể thấy mình đang ở trong một cuộc chạy đua vũ trang hạt nhân toàn diện lần đầu tiên sau nửa thế kỷ—lần này là khi cả Trung Quốc và Nga cùng mở rộng kho vũ khí của họ. Đến một lúc nào đó, Bắc Kinh, Moscow và Washington có thể nhận ra rằng việc giới hạn vũ khí chiến lược là vì lợi ích chung của họ. Nhưng trong tương lai gần, Hoa Kỳ có thể phải đối mặt với cuộc cạnh tranh hạt nhân không bị hạn chế, trong đó Hoa Kỳ có khả năng bị áp đảo về số lượng và hỏa lực và không có phương tiện để nhanh chóng cân bằng tỷ lệ cược.
Việc thiếu các rào chắn khiến kỷ nguyên hạt nhân mới càng trở nên nguy hiểm hơn. Hoa Kỳ đã phải ngăn chặn một cường quốc có kho vũ khí hạt nhân tương tự trước đây, nhưng chưa bao giờ phải ngăn chặn hai. Hoa Kỳ đã đảm bảo cho các đồng minh chống lại một đối thủ hạt nhân lớn duy nhất ở châu Âu, nhưng chưa bao giờ phải đảm bảo cho các nhóm đồng minh riêng biệt, cách nhau hàng nghìn dặm trên đất liền và trên biển, chống lại hai. Hoa Kỳ đã nỗ lực ngăn chặn việc phổ biến vũ khí hạt nhân đến các quốc gia được gọi là bất hảo kể từ khi Chiến tranh Lạnh kết thúc, nhưng trước đây họ chưa từng phải ngăn cản các đồng minh lo lắng theo đuổi chúng trong thế kỷ này. Mặc dù không có giải pháp dễ dàng nào cho những mối đe dọa đang nhân lên này, các nhà lãnh đạo Hoa Kỳ có thể giảm thiểu đáng kể chúng bằng cách thực hiện những thay đổi khôn ngoan nhưng vẫn khiêm tốn đối với chính kho vũ khí và vai trò chung của chiến lược hạt nhân trong chính sách đối ngoại và quốc phòng của Hoa Kỳ.
Về lý thuyết, Hoa Kỳ đã nâng cấp thế trận hạt nhân của mình để giải quyết những thách thức này: trong 15 năm, chính phủ đã cam kết thực hiện chương trình hiện đại hóa hạt nhân trị giá hơn một nghìn tỷ đô la để cập nhật các loại vũ khí trên bộ, trên biển và trên không tạo nên "bộ ba" hạt nhân của Hoa Kỳ. Điều này bao gồm việc thay thế các hệ thống đã cũ hàng thập kỷ bằng các giải pháp thay thế tiên tiến hơn: ví dụ, ICBM Minuteman III những năm 1970 và tàu ngầm tên lửa đạn đạo hạt nhân lớp Ohio sẽ được thay thế bằng ICBM Sentinel hiện đại và tàu ngầm tên lửa đạn đạo hạt nhân lớp Columbia. Máy bay ném bom tàng hình B-21 mới sẽ được trang bị tên lửa hành trình hạt nhân tầm xa có thể phóng vào mục tiêu từ bên ngoài hệ thống phòng không của đối phương. Vào năm 2024, máy bay chiến đấu F-35 thế hệ thứ năm bắt đầu mang theo bom trọng lực B61-12 hiện đại để răn đe khu vực ở châu Âu.
Tuy nhiên, cuộc đại tu này đã được hình thành vào năm 2009, khi Hoa Kỳ thậm chí còn không lường trước được, chứ đừng nói đến việc tính đến, sự bành trướng hạt nhân của Trung Quốc và Triều Tiên. Nhờ các thỏa thuận kiểm soát vũ khí chiến lược với Moscow, Washington cũng cho rằng kho dự trữ hạt nhân toàn cầu sẽ tiếp tục thu hẹp, và thậm chí không tìm cách thay thế toàn bộ số lượng các khả năng cũ. Hãy lấy lực lượng hạt nhân trên tàu ngầm làm ví dụ, vừa là điểm tựa cho khả năng sống sót của hạt nhân - ngăn chặn kẻ thù nhắm vào lãnh thổ Hoa Kỳ - vừa là yếu tố thiết yếu để nhắm mục tiêu vào càng nhiều ICBM của kẻ thù càng tốt. Theo kế hoạch hiện đại hóa, 14 tàu ngầm lớp Ohio hiện có, có thể (không có giới hạn của New START) mang tối đa 336 tên lửa đạn đạo Trident, sẽ được thay thế bằng chỉ 12 tàu ngầm lớp Columbia với sức chứa tối đa chỉ 192 tên lửa Trident - tức là giảm hơn 40 phần trăm số bệ phóng, ngay khi Trung Quốc hoàn thành việc xây dựng hàng trăm hầm chứa ICBM mới.
Hơn nữa, do ưu tiên thấp dành cho xung đột vũ trang hạt nhân vào thời điểm đó, nhiều phần của kế hoạch bắt đầu muộn và sự chậm trễ hơn nữa hiện nay có nghĩa là các khả năng mới vẫn còn cách xa nhiều năm và vượt quá ngân sách hàng tỷ đô la. Với ICBM Sentinel hiện có khả năng chậm tiến độ mười năm, Minuteman III cũ sẽ cần được duy trì cho đến ít nhất là năm 2050, vượt xa tuổi thọ dự kiến của nó. Ngay cả khi Hoa Kỳ hoàn thành quá trình hiện đại hóa theo kế hoạch, kho vũ khí của nước này vẫn sẽ không đủ để đối mặt với các thách thức hạt nhân của ngày hôm nay và ngày mai.
NHIỀU HƠN, KHÁC BIỆT, TỐT HƠN
Hoa Kỳ sẽ cần những cách tiếp cận sáng tạo và một chiến lược toàn diện hơn nhiều để quản lý các mối đe dọa ngày càng gia tăng từ Trung Quốc, Triều Tiên và Nga. Mặc dù chính quyền Trump thứ hai đang theo đuổi kiến trúc phòng thủ tên lửa trong nước "Vòm Vàng" đầy tham vọng, nhưng kế hoạch này cũng đi kèm với những rủi ro riêng. Không chỉ mất hàng thập kỷ để hiện thực hóa hoàn toàn và tốn hàng trăm tỷ đô la có thể được chi cho các năng lực khác, mà nó còn có thể thúc đẩy các đối thủ chế tạo và triển khai nhiều đầu đạn và mồi nhử giá rẻ hơn, cũng như các công nghệ kỳ lạ gây mất ổn định hơn, để có khả năng trốn tránh và bão hòa hệ thống. Các hệ thống phòng thủ tên lửa tiên tiến hơn sẽ là cần thiết để đánh chặn các lực lượng hạt nhân nhỏ hoặc còn sót lại của đối phương, nhưng chúng - bao gồm cả Golden Dome - không thể thay thế các lực lượng phi hạt nhân và hạt nhân có thể được yêu cầu để loại bỏ trước càng nhiều lực lượng đối phương càng tốt nếu đối phương tính toán sai hoặc đe dọa leo thang trong một cuộc chiến. Do đó, Hoa Kỳ sẽ cần một kho vũ khí hạt nhân đột phá mạnh mẽ so với những thập kỷ trước và triển khai, lần đầu tiên trong thế kỷ này, nhiều hệ thống hạt nhân khác biệt và tốt hơn.
Tại châu Âu, Hoa Kỳ và NATO phải đánh giá những gì cần thiết để tạo ra một lực lượng răn đe khu vực mạnh mẽ chống lại một nước Nga theo chủ nghĩa xét lại. Hiện tại, Moscow sở hữu tới 2.000 vũ khí hạt nhân "chiến trường" có năng suất thấp không bị cản trở bởi bất kỳ giới hạn vũ khí hiện có nào. NATO có cơ hội xây dựng khả năng phục hồi và dự phòng cho nhiệm vụ hạt nhân của mình, tận dụng chương trình F-35 chung và địa lý mở rộng của liên minh với các thành viên mới là Phần Lan và Thụy Điển. Nhưng trước sự cải thiện của hệ thống phòng không của Nga, liên minh có thể cần phát triển vũ khí hạt nhân phóng từ trên không tầm xa hơn để triển khai trên máy bay chiến đấu F-35 hoặc các lựa chọn trên mặt đất tiết kiệm chi phí hơn, như những vũ khí kế thừa bom trọng lực B61-12.
Ở Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương, kho vũ khí hạt nhân khu vực thậm chí còn trống rỗng hơn. Mặc dù máy bay ném bom B-2 và B-52 đồn trú tại Hoa Kỳ có thể ném bom trọng lực và tên lửa hành trình hạt nhân tầm xa phóng từ trên không đến khu vực này, nhưng sự áp bức của khoảng cách làm giảm hiệu quả của máy bay ném bom. Để tăng cường khả năng răn đe khu vực trên biển, Hoa Kỳ đã phát triển một đầu đạn có sức công phá thấp hơn (W76-2) được triển khai trên tên lửa đạn đạo Trident lớp Ohio. Nhưng những vũ khí này phải thay thế cho các đầu đạn có sức công phá cao hơn, làm giảm khả năng phản công tổng thể của Hoa Kỳ, cũng như sức mạnh của lực lượng tấn công thứ hai có thể sống sót mà Hoa Kỳ dựa vào để ngăn chặn các cuộc tấn công vào quê hương.
Một giải pháp thay thế đầy hứa hẹn là xây dựng các khả năng răn đe khu vực chuyên dụng cho Châu Á. Vào năm 2023, Quốc hội đã yêu cầu Lầu Năm Góc phát triển một tên lửa hành trình hạt nhân có sức công phá thấp hơn, phóng từ biển cho tàu ngầm tấn công của Hoa Kỳ. Một vũ khí như vậy có thể ngăn chặn việc sử dụng đầu tiên của Trung Quốc hoặc cung cấp một lựa chọn leo thang hạn chế trong trường hợp Trung Quốc tấn công một đồng minh của Hoa Kỳ. Nó cũng có thể giải phóng các tên lửa Trident cho các đầu đạn chiến lược có sức công phá cao hơn, do đó cho phép Hoa Kỳ nhắm mục tiêu hiệu quả hơn vào số lượng silo ICBM ngày càng tăng của Trung Quốc trong khả năng hiện có. Vấn đề là các tên lửa hành trình phóng từ biển mới có thể không sẵn sàng đủ sớm. Ngoài việc khám phá những cách nhanh hơn để có được khả năng này—chẳng hạn như bằng cách ghép nối các đầu đạn hạt nhân có năng suất thấp với các tên lửa Tomahawk hiện có trên các tàu ngầm tấn công lớp Los Angeles cũ hơn—các nhà hoạch định chính sách nên đánh giá tính khả thi của việc phân bổ cho Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương một số hệ thống tên lửa phóng từ trên không hoặc trên bộ trong tương lai được phát triển cho châu Âu. Với thời gian dài để phát triển vũ khí mới, Hoa Kỳ cần dự đoán nhu cầu trong tương lai ở châu Á và châu Âu ngay từ bây giờ để có thể sẵn sàng khi cơn bão ập đến.
Một số đồng minh đã bắt đầu đặt câu hỏi về chiếc ô hạt nhân của Hoa Kỳ.
Nếu Trung Quốc hoặc Nga leo thang xung đột khu vực vượt ra ngoài châu Á hoặc châu Âu, Washington sẽ phải chuyển sang răn đe chiến lược "trung tâm" để ngăn chặn một cách đáng tin cậy một cuộc tấn công hạt nhân vào lãnh thổ Hoa Kỳ. Trong một thế giới hạt nhân mà Trung Quốc hoặc Nga có thể tự mình thử thách Hoa Kỳ và trong đó hai đối thủ của Hoa Kỳ có thể liên kết để làm như vậy đồng thời hoặc liên tiếp, một thách thức chính là tìm ra cách ngăn chặn một bên mà không làm ảnh hưởng đến khả năng ngăn chặn bên kia. Chính quyền Biden lần đầu tiên nhận ra vấn đề này trong Hướng dẫn lập kế hoạch triển khai vũ khí hạt nhân, một báo cáo được ban hành vào năm 2024. Hướng dẫn cập nhật này chỉ đạo Bộ Quốc phòng chuẩn bị để ngăn chặn Trung Quốc, Triều Tiên và Nga "đồng thời trong thời bình, khủng hoảng và xung đột". Ý nghĩa chung là Washington không chỉ cần triển khai nhiều đầu đạn hơn mà còn cần triển khai nhiều hệ thống hơn so với kế hoạch ban đầu theo chương trình hiện đại hóa.
Để thực hiện điều này trong bối cảnh tiếp tục chậm trễ, chính quyền Biden đã cân nhắc các lựa chọn trong ngắn hạn như tải thêm đầu đạn vào ICBM Minuteman III, hiện mỗi tên lửa chỉ mang một đầu đạn; kéo dài thời gian hoạt động của tàu ngầm lớp Ohio thêm vài năm nữa để đảm bảo không xảy ra tình trạng thiếu bệ phóng ngay lập tức; và bổ sung thêm tên lửa Trident vào tàu ngầm lớp Ohio, vốn đã có bốn trong số 24 bệ phóng tên lửa của chúng bị vô hiệu hóa hoặc "bị giới hạn" để tuân thủ các giới hạn của Hiệp ước START mới sắp hết hạn. Tuy nhiên, để tránh vách đá phóng tên lửa đang hiện hữu trong thành phần biển quan trọng của bộ ba hạt nhân, Hoa Kỳ phải chế tạo nhiều tàu ngầm lớp Columbia hơn vào những năm 2040 trở đi - ít nhất là 14 tàu, và có thể nhiều hơn, để phòng ngừa sự gia tăng kho vũ khí của đối thủ.
Nói rõ hơn, Hoa Kỳ không cần triển khai nhiều lực lượng hạt nhân hơn cả Trung Quốc và Nga cộng lại. Răn đe không phải là—và chưa bao giờ là—một chức năng của việc so sánh đầu đạn thô. Ví dụ, kho vũ khí hạt nhân của Hoa Kỳ hiện nay không giống hệt về quy mô hoặc thành phần với kho vũ khí của Nga, nơi có số lượng vũ khí lớn hơn nói chung, bao gồm số lượng lớn đầu đạn hạt nhân và hệ thống phóng phi chiến lược tập trung vào khu vực. Tuy nhiên, để chống lại các hầm chứa ICBM mà Trung Quốc hiện đang phát triển trong khi vẫn duy trì khả năng răn đe đối với Nga, Hoa Kỳ sẽ cần cân nhắc triển khai thêm đầu đạn. Chính xác là có bao nhiêu đầu đạn nữa vẫn chưa chắc chắn và sẽ phụ thuộc phần lớn vào các lựa chọn mà đối thủ đưa ra và vào mức độ rủi ro mà một tổng thống sẵn sàng chấp nhận trong cả hai kịch bản hạt nhân hợp lý nhất và tệ nhất.
Để ứng phó với sự bành trướng hạt nhân của Trung Quốc, một số chuyên gia đã kêu gọi thay đổi cơ bản trong chiến lược hạt nhân của Hoa Kỳ để tránh phải triển khai thêm vũ khí hạt nhân. Theo cách tiếp cận phản công hiện tại, kết hợp với phòng thủ tên lửa nhằm hạn chế thiệt hại cho các đồng minh và đất nước, Hoa Kỳ cần triển khai đủ số lượng lực lượng hạt nhân và phi hạt nhân để có thể nhắm mục tiêu vào lực lượng hạt nhân của đối phương. Với thách thức trong việc duy trì khả năng này trước hai đối thủ hạt nhân đang ngày càng lớn mạnh, một số nhà chiến lược ủng hộ việc chuyển sang cái gọi là cách tiếp cận phản công, trong đó Hoa Kỳ sẽ không cố gắng nhắm mục tiêu vào lực lượng hạt nhân của đối phương mà thay vào đó sẽ nhắm mục tiêu vào một số lượng nhỏ hơn các trung tâm dân số quan trọng, cơ sở hạ tầng và các nguồn kiểm soát chính trị và sự giàu có về kinh tế. Những người ủng hộ lập luận rằng sự thay đổi chiến lược này sẽ không yêu cầu điều chỉnh tư thế của Hoa Kỳ vì tàu ngầm Hoa Kỳ, ẩn sâu dưới đáy biển, chắc chắn có thể trả đũa các trung tâm quyền lực chính trị, cơ sở hạ tầng và dân số để đáp trả đòn tấn công đầu tiên của đối phương, ngăn chặn cuộc tấn công ngay từ đầu.
Bỏ qua các vấn đề pháp lý và đạo đức của việc cố ý nhắm vào dân thường, việc từ bỏ mục tiêu - hoặc thậm chí là lựa chọn - hạn chế thiệt hại sẽ buộc một tổng thống Hoa Kỳ phải phơi bày quê hương và dân số Hoa Kỳ trước một sự trả thù tàn khốc. Viễn cảnh đó đặt ra câu hỏi về việc liệu một chiến lược đối trọng có thực sự ngăn chặn được kẻ thù hay không và mức độ mà nó sẽ gây nguy hiểm không cần thiết cho thêm nhiều sinh mạng của người Mỹ - điều mà bất kỳ tổng thống Hoa Kỳ nào cũng coi trọng nhất. Cách tiếp cận đối trọng cũng sẽ khiến các đồng minh đặt câu hỏi liệu Hoa Kỳ có sẵn sàng sử dụng vũ khí hạt nhân để bảo vệ họ trong một cuộc chiến tranh khu vực hay không. Với các thành phố của Hoa Kỳ đang chịu mối đe dọa hạt nhân gia tăng và Hoa Kỳ giữ kho vũ khí của mình để ngăn chặn các cuộc tấn công như vậy thay vì duy trì khả năng răn đe mở rộng, các đồng minh có thể kết luận rằng họ cần tìm kiếm kho vũ khí hạt nhân của riêng mình. Một chiến lược được xây dựng nhằm răn đe chung các cuộc tấn công vào lãnh thổ Hoa Kỳ là không đáng tin cậy trong kỷ nguyên răn đe mở rộng, một bài học mà Hoa Kỳ đã học được vào những năm 1960 và chưa bao giờ được nhắc lại, vì các nhà lãnh đạo quốc gia khi đó và ngày nay đều ưu tiên chính xác cho việc không phổ biến vũ khí hạt nhân như một thành phần quan trọng của chiến lược hạt nhân.
Xét đến những nhược điểm này, một cách tiếp cận tốt hơn sẽ là điều chỉnh chiến lược phản công hiện tại cho kỷ nguyên mới. Vì mục tiêu phản công được thúc đẩy bởi thành phần chứ không phải quy mô kho vũ khí hạt nhân của đối thủ, nên điều này chỉ cần một sự điều chỉnh khiêm tốn để tính đến các hầm chứa ICBM ngày càng tăng của Trung Quốc. Thật vậy, trừ khi Trung Quốc và Nga chọn tăng quy mô kho vũ khí của riêng họ lên mức mà họ đã lên kế hoạch, Hoa Kỳ không cần phải mở rộng kho dự trữ hiện có của mình là khoảng 3.800 đầu đạn. Nhưng việc thay đổi thành phần của kho vũ khí sẽ rất quan trọng. Điều này bao gồm việc đánh giá tầm quan trọng của năng lực hạt nhân khu vực đối với việc ngăn chặn sự xâm lược cục bộ của Trung Quốc và Nga, và phân tích cách ưu tiên, chẳng hạn như năng lực trên biển so với trên bộ để củng cố khả năng răn đe chiến lược trong một thế giới có nhiều cường quốc hạt nhân lớn, với lực lượng sẵn có. Ví dụ, mặc dù có thể mất nhiều thập kỷ để chế tạo thêm tàu ngầm lớp Columbia, nhưng các nhà hoạch định của Hoa Kỳ có nhiều cách khác nhau để sử dụng các lực lượng hiện có để xây dựng lại khả năng răn đe đáng tin cậy, như các lựa chọn trong tương lai gần do chính quyền Biden vạch ra đã nêu rõ. Được thiết kế đúng cách, ngay cả những điều chỉnh khiêm tốn trong ngắn hạn và dài hạn cũng có thể duy trì khả năng răn đe đáng tin cậy đối với cả Trung Quốc và Nga với chi phí hợp lý. Nhưng trừ khi Hoa Kỳ chuẩn bị từ bỏ hoàn toàn chiến lược hạt nhân lâu dài của mình - và có nguy cơ khiến đất nước phải hứng chịu cuộc tấn công hạt nhân và làm suy yếu độ tin cậy của các cam kết răn đe mở rộng của mình - thì Hoa Kỳ sẽ cần triển khai nhiều lực lượng hạt nhân hơn, khác biệt hơn và tốt hơn. Hoa Kỳ cần một kho vũ khí linh hoạt và mạnh mẽ hơn không phải để chống lại một cuộc chiến tranh hạt nhân mà là để ngăn chặn sự bùng nổ của nó.
***
Để chiến lược hạt nhân của mình có hiệu quả trong một thế giới với nhiều mối đe dọa gia tăng, Washington không thể tiếp tục giao phó các vấn đề hạt nhân cho một cộng đồng chuyên gia nhỏ và biệt lập nữa. Sự chuyển đổi của bối cảnh hạt nhân đòi hỏi sự tham gia sâu sắc từ các nhà lãnh đạo cấp cao nhất trong chính phủ, như đã xảy ra trong Chiến tranh Lạnh. Không gì có thể nâng cao độ tin cậy của khả năng răn đe mở rộng mà Hoa Kỳ cung cấp cho các đồng minh ở Châu Á và Châu Âu hơn một minh chứng rõ ràng rằng các nhà lãnh đạo cấp cao nhất của đất nước đang tích cực chuẩn bị cho những thách thức sắp tới.
Để ngăn cản các đồng minh tìm kiếm biện pháp răn đe hạt nhân của riêng họ và để đảm bảo rằng "phần cứng" của Hoa Kỳ - năng lực quân sự của Hoa Kỳ - phù hợp với mục đích, Hoa Kỳ phải tái khẳng định rõ ràng rằng "phần mềm" của mình - ý chí chính trị của mình trong việc bảo vệ các đồng minh bằng toàn bộ năng lực - cũng mạnh mẽ như vậy. Washington phải chứng minh rằng họ vẫn cam kết với khái niệm răn đe mở rộng và quyết tâm làm cho sự đảm bảo này trở nên đáng tin cậy trước các mối đe dọa mới và đang nổi lên. Những nỗ lực trước đây của Hoa Kỳ theo hướng này, bao gồm cả trong chính quyền Trump đầu tiên và chính quyền Biden, đã thúc đẩy các đồng minh đóng góp nhiều hơn cho sứ mệnh răn đe hạt nhân của NATO, bao gồm cả việc mua sắm và triển khai nhiều hơn các năng lực phi hạt nhân của riêng họ. Tương tự như vậy, ở Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương, những nỗ lực của Washington nhằm nâng cấp mối quan hệ răn đe mở rộng với Úc, Nhật Bản và Hàn Quốc đã giúp tái khẳng định ô dù hạt nhân của Hoa Kỳ. Những nỗ lực này hiện phải được tăng gấp đôi để tránh làn sóng phổ biến vũ khí hạt nhân do chính Washington tạo ra.
Ngoài việc tái khẳng định khả năng răn đe mở rộng, Hoa Kỳ nên tìm cách khôi phục các nỗ lực kiểm soát vũ khí và giảm thiểu rủi ro hạt nhân, ngay cả khi môi trường hiện nay khiến các biện pháp như vậy trở nên khó khăn hơn nhiều. Bằng cách điều chỉnh thế trận hạt nhân của riêng mình, Hoa Kỳ có thể thúc đẩy Trung Quốc và Nga ngồi vào bàn đàm phán. Nếu điều đó xảy ra, Washington nên điều chỉnh các thỏa thuận để cho phép các mối đe dọa đang phát triển và mới nổi. Ví dụ, bằng cách cho phép mức trần đầu đạn cao hơn đối với các loại vũ khí được triển khai, về mặt lý thuyết, một thỏa thuận New START được cập nhật với Nga có thể duy trì khả năng răn đe ổn định lẫn nhau giữa Moscow và Washington trong khi cho phép Hoa Kỳ chống lại và ưu tiên mối đe dọa ngày càng tăng từ các hầm chứa ICBM của Trung Quốc. Vì Nga vẫn giữ một số lượng tương đối cố định các hệ thống phân phối hạt nhân chiến lược, nên nỗ lực của Nga nhằm tăng số lượng đầu đạn trên một hệ thống phân phối nhất định sẽ phần lớn không quan trọng đối với các nhà chiến lược Hoa Kỳ: để duy trì khả năng răn đe đối phó hiệu quả, Bộ Tư lệnh Chiến lược Hoa Kỳ vẫn cần nhắm mục tiêu vào một số lượng không đổi các hệ thống phân phối của Nga nhưng sẽ có thêm các đầu đạn cần thiết để nhắm mục tiêu vào các ICBM của Trung Quốc. Hoa Kỳ không thể chỉ hy vọng rằng sự bành trướng hạt nhân lớn của Trung Quốc một ngày nào đó có thể bị đảo ngược.
Một điều rõ ràng là. Nếu Hoa Kỳ không khẩn trương chuẩn bị cho cơn bão hạt nhân sắp xảy ra, họ có thể thấy mình ở một nơi mà họ chưa từng đến: một tình huống mà Trung Quốc, Triều Tiên hoặc Nga - hành động riêng lẻ hoặc phối hợp - sử dụng vũ khí hạt nhân chống lại một đồng minh của Hoa Kỳ hoặc thậm chí là quê hương của Hoa Kỳ vì Washington dường như không muốn hoặc không có khả năng ngăn chặn một cuộc tấn công như vậy. Thế giới chưa bao giờ trải qua một cơn bão như vậy. Trong tám mươi năm, các nhà chiến lược Hoa Kỳ đã chiến đấu thành công để ngăn chặn nó xảy ra. Nhưng giờ đây nó đến nhanh hơn bất kỳ dự đoán nào và sự tự mãn có thể gây tử vong.
VIPIN NARANG là Giáo sư Frank Stanton về An ninh Hạt nhân và Khoa học Chính trị và Giám đốc Trung tâm Chính sách An ninh Hạt nhân tại Viện Công nghệ Massachusetts. Từ năm 2022 đến năm 2024, ông giữ chức Phó chính và sau đó là Quyền Trợ lý Bộ trưởng Quốc phòng Hoa Kỳ về Chính sách Không gian.
PRANAY VADDI là Nghiên cứu viên Hạt nhân Cao cấp tại Trung tâm Chính sách An ninh Hạt nhân tại Viện Công nghệ Massachusetts. Từ năm 2022 đến năm 2025, ông giữ chức Giám đốc cấp cao về Kiểm soát vũ khí, Giải trừ quân bị và Không phổ biến vũ khí hạt nhân tại Hội đồng An ninh Quốc gia.
https://www.foreignaffairs.com/united-states/how-survive-new-nuclear-age-narang-vaddi
***
How to Survive the New Nuclear Age
National Security in a World of Proliferating Risks and Eroding Constraints
📷Matt NeedleMore by Vipin Narang
In 2009, when U.S. President Barack Obama came into office, nuclear weapons looked increasingly superfluous. As the Cold War faded into history, Moscow and Washington, the world’s two nuclear superpowers, had long been working together to reduce their arsenals. At the same time, after years of protracted conventional wars in Afghanistan and Iraq and the broader “war on terror,” the U.S. defense establishment was far more preoccupied with counterterrorism and counterinsurgency than with nuclear strategy and great-power rivalry. The notion that any other country would attempt to reach nuclear parity with Russia and the United States seemed far-fetched, and American leaders were all too happy to delay an expensive refurbishment of the aging U.S. arsenal. So strong was the consensus that nuclear arms were a relic of a previous era that four top former national security officials—Henry Kissinger, George Shultz, Sam Nunn, and William Perry, not one of them a dove—publicly called for “ending” nuclear weapons “as a threat to the world.”
A decade and a half later, things could not be more different. The United States now faces a Category 5 hurricane of nuclear threats. After decades of maintaining only a minimal nuclear capability, China is on pace to nearly quintuple its 2019 stockpile of some 300 nuclear warheads by 2035, in a quest to attain an arsenal equivalent in strength to Russia’s and the United States’. Far from being a partner in arms reductions, Russia is using the threat of nuclear weapons as a shield for its aggression in Ukraine. Meanwhile, North Korea continues to expand its arsenal, which now includes missiles capable of hitting the continental United States. Iran is closer than ever to producing a nuclear weapon. And in May, the world witnessed India and Pakistan, two nuclear-armed powers, strike each other’s heartlands with conventional weapons in the aftermath of a terror attack, a confrontation that—already unprecedented—could have escalated to a nuclear standoff.
These multiplying threats have not just brought nuclear strategy back to the center of U.S. defense concerns; they have also introduced new problems. Never before has the United States had to deter and protect its allies from multiple nuclear-armed great-power rivals at the same time. Like Russia, both China and North Korea may integrate nuclear weapons into offensive planning, seeking a nuclear shield to enable conventional aggression against nonnuclear neighbors. Moreover, there is a growing possibility that two or more nuclear powers—for example, China and Russia, or North Korea and Russia—might try to synchronize military aggression against their neighbors, stretching the U.S. nuclear deterrent beyond its means. Finally, the rapid erosion of nuclear guardrails, the diplomatic architecture that has for decades limited proliferation and brought security to dozens of countries under the U.S. nuclear umbrella, has pushed some Asian and European allies to consider acquiring their own nuclear weapons. All this has happened in an era in which the United States’ antiquated nuclear arsenal has fallen into disrepair, with ongoing modernization efforts mired in delays and rampant cost overruns.
This coming nuclear hurricane poses far-reaching challenges. For the first time since the end of the Cold War, Washington will need to develop more, different, and better nuclear capabilities and begin to deploy them in new ways. Given the scale of the problem, nuclear concerns can no longer be treated as a niche issue managed by a small community of experts. Officials at the highest levels of government will need to incorporate them into core defense policy in each of the major theaters of vital interest to the United States: Europe, the Indo-Pacific, and the Middle East. At the same time, Congress will need to back an accelerated effort to overhaul the U.S. arsenal with significant funding and give the project urgent priority, to be able to address not just today’s changing threat environment but tomorrow’s as well. Above all, for the United States to effectively handle a highly volatile and quickly changing nuclear order, nuclear affairs must once again become a central part of American grand strategy.
CHINA’S BIG PLAY
The most momentous shift in the global nuclear weapons landscape is China’s determination to become a nuclear powerhouse. As recently as 2019, the small Chinese arsenal scarcely factored into U.S. nuclear strategy. After first testing nuclear weapons in 1964, Beijing sought nuclear capabilities almost exclusively for defensive purposes and to be able to deter the United States (or the Soviet Union) from nuclear attack and “blackmail.” To achieve these limited goals, Beijing maintained a handful of unfueled intercontinental ballistic missiles and stored the warheads separately—an arrangement that required hours, perhaps days, to prepare the ICBMs for launch. This posture enabled a retaliation-only strategy, accompanied by a “no first use” pledge to the world. As a result, U.S. strategists, both during the Cold War and after, were able to set China’s nuclear forces aside as a “lesser included case” and concentrate on deterring the Soviet Union and its successor, Russia.
Sometime during the last decade, however, Chinese leader Xi Jinping ordered a breathtaking expansion of his country’s nuclear arsenal. Along with hundreds of new ICBM silos, the new force will include regional low-yield ballistic missiles (and possibly cruise missiles), hypersonic delivery systems, an orbital warhead-delivery system designed to evade U.S. missile defenses, and an expanding submarine-based deterrent designed to survive a nuclear first strike. Moreover, Beijing is building this arsenal even faster than Washington had initially anticipated: in just five years, it has doubled its number of operational warheads to 600, a figure that is estimated to reach 1,000 by 2030 and possibly 1,500 by 2035. As a result, the United States may soon face not one but two rival great powers with large, diverse strategic nuclear forces comparable to its own.
China’s nuclear rise poses a complicated dilemma for U.S. planners. Since the dawn of the nuclear age, American nuclear strategy has centered on convincing any adversary that there is no viable pathway to using nuclear weapons to achieve its political-military goals against the United States or any U.S. allies. This strategy has three parts. First and most important, the U.S. arsenal must be able to survive a first strike and impose assured destruction on its attacker in retaliation for such a strike. Second, to the extent possible, it needs to be able to meaningfully limit the amount of damage the attacker can inflict on the United States and its allies. To do this, the United States must maintain the capability to destroy as many of the attacker’s nuclear weapons as practicable before or after they are launched, a principle known as counterforce targeting. Thus, in addition to flexible regional nuclear options that can manage escalation, Washington needs highly accurate U.S.-based strategic nuclear forces that can threaten to destroy the adversary’s long-range arsenal, to prevent a limited war—wherein one or two nuclear weapons might be exchanged in theater as an escalatory step in an intense conventional conflict—from turning into a far more destructive one. The ability to limit damage is a core requirement of U.S. deterrence strategy and its nuclear guarantee to allies—that the United States could likely save Berlin without losing Boston. Third, the U.S. arsenal needs to be large and survivable enough to retain sufficient nuclear capabilities after an initial exchange to deter further attack by a weakened adversary or opportunistic aggression by one of the smaller nuclear-armed states. A nuclear force that is designed to meet these three goals with respect to only Russia, however, as the U.S. arsenal currently is, will be insufficient to do so against both China and Russia at the same time.
Adding to this problem is the specific composition of Beijing’s new arsenal. Had Xi’s nuclear expansion focused on building up survivable nuclear forces—for example, by placing more warheads on ballistic missile submarines—then U.S. strategists would mainly need to focus on enhancing antisubmarine tools. But Xi has chosen also to build hundreds of new silos for land-based ICBMs, which can be launched within minutes to devastate the U.S. homeland—a posture that seems designed to break U.S. strategy. For the United States to be able to credibly limit damage from China, it will need to account for each new silo. Moreover, the United States cannot assume, as some have argued, that Beijing merely wants a more credible assured retaliation capability. By acquiring new ICBMs and lower-yield short-range weapons, it could be fundamentally shifting the orientation of its nuclear strategy. For example, China could use lower-yield weapons “locally” in a battle against conventional forces, whether on the battlefield or to deter the United States from using similar capabilities if a Chinese offensive imperils U.S. conventional forces. The new ICBMs could also help China counter the United States’ ability to threaten strategic escalation. Given the number of new Chinese ICBM silos and their geographic spread, and China’s potential shift to a strategy that enables regional coercion, the United States will likely need a larger—and different—deployed nuclear arsenal to be able to deter both China and Russia in twin crises.
DANGER AT EVERY CORNER
To make matters worse, China’s emergence as a major nuclear weapons state comes at a moment when Russia and other smaller nuclear powers have begun wielding their arsenals in far more dangerous and destabilizing ways. In recent years, Moscow has not only steamrolled over almost every arms control agreement with Washington but also made explicit nuclear threats against the West. In the fall of 2022, for example, when Russia’s front in southern Ukraine appeared at risk of collapse, Russia’s nuclear threats took on a new edge as its senior leaders credibly discussed using low-yield nuclear weapons to avoid conventional defeat. The U.S. intelligence community judged that the odds of such use were higher than at any time since the Cuban missile crisis—a “coin flip,” as one aide to U.S. President Joe Biden put it. The Biden administration urgently set out to convince Putin that using a nuclear weapon would have “catastrophic consequences,” and Putin decided not to test Western resolve—this time.
Nevertheless, the threat crystallized Moscow’s stakes in the conflict and forced the United States and its allies to carefully weigh the escalation risks of providing military aid to Ukraine. Moreover, there was no “the other guy blinked” moment, as U.S. Secretary of State Dean Rusk famously stated when describing the Soviets backing down to end the Cuban missile crisis: the threat of Russian nuclear use may have receded after the 2022 crisis, but the conditions that generated it have persisted and intensified. Since then, the Kremlin has suspended the 2010 New START treaty—which had brought the U.S. and Russian arsenals down to their lowest levels in 60 years. It has also revised its nuclear doctrine, clarifying that it would consider targeting nuclear-armed states, such as France, the United Kingdom, and the United States, that provide aid to a nonnuclear belligerent at war with Russia, such as Ukraine. Putin has begun to deploy Russian nuclear weapons in neighboring Belarus, and U.S. officials assessed that Russia may have a reckless plan to put nuclear weapons in space.
Notwithstanding Russia’s saber rattling, Washington and its European allies announced more expansive military support to Kyiv, including F-16s, new munitions, and missiles that would allow long-range strikes against Crimea and into Russian territory. The United States and NATO allies also suspended compliance with the Treaty on Conventional Armed Forces in Europe following Russia’s withdrawal in 2023, a step that allows a greater number of U.S., NATO, and other forces to be stationed closer to the Russian border if necessary. Amid heightened Russian nuclear rhetoric and growing risk-taking by both sides, the nuclear threat has become a permanent feature of the conflict. What’s more, Russia’s strategy in Ukraine has provided a possible playbook not only for China but also for North Korea for using the threat of a nuclear attack as a shield to enable increasingly ambitious regional aggression.
Indeed, the complexities of the emerging nuclear landscape go well beyond rising China and revisionist Russia. North Korean leader Kim Jong Un is steadily expanding his country’s nuclear arsenal, seemingly disinterested in Trump administration efforts to reduce nuclear tensions in exchange for sanctions relief. In recent years, along with a newer generation of ICBMs capable of reaching U.S. territory, North Korea has added enough regional nuclear weapons to its arsenal to deter a combined U.S.–South Korean attack. North Korean strategists aim to convince Washington that it should not risk San Francisco to protect Seoul—that it should abandon South Korea to fend for itself. Meanwhile, Iran continues to advance its nuclear program, reducing the time required to sprint to a weapon to potentially days. Weakened by the dismantling of its network of proxy forces over the past 18 months, it may also feel more urgency than ever to weaponize its nuclear capability. If Israel and the United States conclude that the Iranian regime is about to cross that threshold, they might feel compelled to launch a preventive attack, possibly setting off a destabilizing regional war. Although the Trump administration has said it is open to a new nuclear deal with Iran, making progress will not be easy. Too much pressure could backfire, causing Iranian hard-liners to push for rapid weaponization. But readiness to compromise could embolden Tehran to continue its secretive, creeping progress toward a weapon, setting the stage for future war.
Yet another threat comes from Pakistan. Although Pakistan claims its nuclear program is strictly focused on deterring India, which enjoys conventional military superiority, U.S. intelligence agencies have concluded that the Pakistani military is developing an ICBM that could reach the continental United States. In acquiring such a capability, Pakistan might be seeking to deter the United States from either trying to eliminate its arsenal in a preventive attack or intervening on India’s behalf in a future Indian-Pakistani conflict. Regardless, as U.S. officials have noted, if Pakistan acquires an ICBM, Washington will have no choice but to treat the country as a nuclear adversary—no other country with ICBMs that can target the United States is considered a friend. In short, mounting nuclear dangers now lurk in every region of vital interest to the United States.
NUCLEAR BULLIES, ANXIOUS ALLIES
Although each of these rising nuclear antagonists poses a challenge in its own right, the possibility of coordination or collusion among them is even more worrying. To aid Russia’s war in Ukraine, for example, Iran has furnished the Russian military with drones; North Korea has provided at least 14,000 soldiers and huge amounts of munitions and has cemented a “comprehensive strategic partnership” with Russia. In addition to giving North Korea a dependable Russian veto in the UN Security Council against any additional global sanctions, the growing Moscow-Pyongyang axis means that a conflict on the Korean Peninsula could draw in China, Russia, and the United States, with each supporting its respective ally—creating a true nuclear nightmare.
By far the greatest concern, however, is the growing alignment of China and Russia. In 2023, China provided Russia with approximately 90 percent of its imports of goods that are subject to the G-7’s high-priority export control list, according to a study by the Carnegie Russia Eurasia Center. Filling a massive import gap, this Chinese supply chain has helped Russia sustain its war economy and quickly reconstitute its depleted conventional capabilities. In return, Russia has helped China in strategic military domains such as space, missile defense, and early warning technologies—including a system that can detect an adversary missile attack from anywhere on the globe, a capability that only Russia and the United States possess.
Indeed, U.S. defense planners must now consider the possibility that Beijing and Moscow may try to synchronize aggression against their neighbors to further limit the U.S. ability to respond. If China attacks Taiwan while Russia is attacking eastern Europe, for example, U.S. forces would be split and stretched thin. Hypothetically, if it failed to deter Russia from using a nuclear weapon to further Moscow’s regional aims, the United States might need to respond with nuclear use, and potentially with a larger nuclear exchange if it is unable to reestablish nuclear deterrence in Europe. In such a situation, with overall U.S. deterrence weakened, China could exploit the moment to launch a conventional attack against its neighbors, or even be emboldened to use nuclear weapons to stave off the United States. Confronted with this two-war dynamic, given the current U.S. arsenal, a U.S. president might be compelled to back down in one or both fights, with catastrophic consequences for American and global security.
Russia’s offensive nuclear strategy in Ukraine is a playbook for China and North Korea.
Amid these volatile developments, a number of nonnuclear states—including, for the first time this century, Washington’s own allies—are contemplating developing their own nuclear arsenals. For decades, a key pillar of American nuclear strategy has been extending the U.S. nuclear deterrent to at least 34 formal allies across two vast oceans, a responsibility no other power assumes. This policy was born not out of altruism but out of self-interest: the United States and its collective deterrent are stronger with the geography, capabilities, and political unity that allies provide. Fewer nuclear powers means fewer opportunities for nuclear use, a goal that has also allowed Washington to centralize alliance decision-making under its command.
With the rapid changes in both the global nuclear environment and U.S. foreign policy, however, some American allies have begun to question Washington’s ability and willingness to extend deterrence. South Korea—anxious about American abandonment—is now most likely to engage in nuclear proliferation, although some NATO powers could also be candidates. In Europe, the United Kingdom’s and France’s nuclear arsenals can compensate to some degree for reduced U.S. engagement. But these forces, even combined with additional nonnuclear capabilities, are not positioned to limit the damage that Russia can cause to allies and thus cannot credibly replace the nuclear umbrella offered by the United States. As a result, countries such as Poland or even Germany could decide to seek their own nuclear weapons if they become convinced that the United States is no longer willing or able to protect them.
The advent of more nuclear powers, regardless of whether they are U.S. allies, would open a Pandora’s box that Washington has fought for decades to keep closed. For one thing, the same nuclear powers these countries are seeking to deter—China, Russia, and North Korea—could decide to wipe out any emerging nuclear programs in a preventive attack. And even if a U.S. ally succeeds in acquiring nuclear weapons, its small arsenal would become vulnerable to more powerful adversaries as U.S. security guarantees fade, leading to growing instability. Consider South Asia, where India and Pakistan continue to engage in increasingly intense conventional strikes despite the ever-present threat of nuclear use, testing the limits of the so-called stability-instability paradox, wherein the existence of nuclear stability between two countries may actually increase the likelihood of conventional conflict. Moreover, if one U.S. ally—say, South Korea—developed nuclear weapons, it would likely encourage others, such as Japan, to quickly follow suit. This would deliver a damaging blow to an already fragile Nuclear Nonproliferation Treaty, which has for decades served as a crucial brake on the spread of nuclear weapons. Keeping allies nonnuclear and preserving the treaty are core American interests—if nothing else, to prevent other states from starting, and dragging Washington into, nuclear wars that the United States has to finish.
A GAME WITHOUT RULES
Among the remarkable facts about the nuclear order in previous decades has been the general observance of formal and informal guardrails to limit the growth, spread, and use of nuclear weapons. Even at the height of the Cold War, the Soviet Union and the United States saw mutual benefit in verifiable strategic arms control. And after successful negotiations on shaping and limiting their arsenals in the Strategic Arms Limitation Talks of the 1970s, the two countries began a series of agreements to massively reduce their military armaments, from the U.S.-Soviet Intermediate-Range Nuclear Forces Treaty in 1987 to the U.S.-Russian New START Treaty in 2010. In this way, the countries managed a steady and precipitous reduction in their forces from the heights of Cold War military competition.
Today, these constraints are crumbling. Under Putin, Moscow has partially or fully abandoned many of the earlier agreements, and Beijing continues to refuse even discussing arms limits as it rapidly expands its arsenal. The looming 2026 expiration of New START, which limits Russia and the United States to 1,550 deployed nuclear warheads each on intercontinental delivery systems, may be a crucial inflection point. Without a successor agreement, the United States could find itself in a full-blown nuclear arms race for the first time in half a century—this time with both China and Russia expanding their arsenals simultaneously. At some point, Beijing, Moscow, and Washington may come to recognize that limits on strategic arms are in their mutual self-interest. But for the foreseeable future, the United States may have to face unconstrained nuclear competition in which it is potentially outnumbered and outgunned and does not have the means to quickly even the odds.
The lack of guardrails makes the new nuclear age all the more dangerous. The United States has had to deter a great power with a similar nuclear arsenal before, but it has never had to deter two. It has assured allies against a single major nuclear adversary in Europe, but it has never had to assure distinct groups of allies, thousands of miles apart on land and sea, against two. The United States has worked to prevent the spread of nuclear weapons to so-called rogue states since the end of the Cold War, but it has not previously had to stop nervous allies from pursuing them this century. Although there are no easy solutions to these multiplying threats, U.S. leaders can significantly mitigate them by making astute, yet still modest, changes to the arsenal itself and to the overall role of nuclear strategy in U.S. foreign and defense policy.
In theory, the United States is already upgrading its nuclear posture to address these challenges: for 15 years, the government has been committed to a trillion-dollar-plus nuclear modernization program to update the land-, sea-, and air-based weapons that constitute the U.S. nuclear “triad.” This includes replacing decades-old systems with more advanced alternatives: the 1970s Minuteman III ICBMs and Ohio-class nuclear ballistic missile submarines, for example, will be replaced by modern Sentinel ICBMs and Columbia-class nuclear ballistic missile submarines. The new B-21 stealth bomber will be equipped with a long-range nuclear stand-off cruise missile that can be launched at a target from outside an enemy’s air defenses. In 2024, fifth-generation F-35 fighters began carrying the modern B61-12 gravity bomb for regional deterrence in Europe.
Yet this overhaul was conceived in 2009, when the United States had not even anticipated, let alone accounted for, the nuclear expansions of China and North Korea. Thanks to its strategic arms control agreements with Moscow, Washington also assumed that global nuclear stockpiles would continue to shrink, and it did not even seek to replace the full number of legacy capabilities. Take the submarine-based nuclear forces, which are both the backstop of nuclear survivability—deterring an adversary from targeting the U.S. homeland—and also essential for targeting as many of an adversary’s ICBMs as possible. According to the modernization plan, the existing 14 Ohio-class submarines, which can (without New START limits) carry a maximum of 336 Trident ballistic missiles, are to be replaced by just 12 Columbia-class submarines with maximum capacity for only 192 Tridents—representing a launcher reduction of more than 40 percent, just as China completes its construction of hundreds of new ICBM silos.
Moreover, because of the low priority accorded to nuclear-armed conflict at the time, many parts of the plan started late, and further delays now mean that new capabilities are still years away and billions of dollars over budget. With the Sentinel ICBMs now likely ten years behind schedule, the legacy Minuteman III will need to be maintained until at least 2050, well beyond its designed life expectancy. Even if the United States completes the modernization as planned, the country’s arsenal will still be insufficient to confront today’s and tomorrow’s nuclear challenges.
MORE, DIFFERENT, BETTER
The United States will need innovative approaches and a far more comprehensive strategy to manage the multiplying threats from China, North Korea, and Russia. Although the second Trump administration is pursuing an ambitious “Golden Dome” homeland missile defense architecture, the plan comes with risks of its own. Not only will it take decades to be fully realized and cost hundreds of billions of dollars that could be spent on other capabilities, but it may also spur adversaries to cheaply build and deploy more warheads and decoys, as well as more destabilizing exotic technologies, to potentially evade and saturate the system. More advanced missile defenses will be necessary to intercept small or residual adversary nuclear forces, but they—including Golden Dome—cannot replace the nonnuclear and nuclear forces that may be required to first eliminate as many adversary forces as practicable if an adversary miscalculates or threatens escalation in a war. As a result, the United States will need a nuclear arsenal that breaks sharply from that of past decades, and that deploys, for the first time this century, more, different, and better nuclear systems.
In Europe, the United States and NATO must assess what is required to create a strong regional deterrent against a revisionist Russia. Currently, Moscow possesses up to 2,000 lower-yield “battlefield” nuclear weapons that are unhindered by any existing arms limits. NATO has an opportunity to build resilience and redundancy into its nuclear mission, taking advantage of the common F-35 program and the expanded geography of the alliance with new members Finland and Sweden. But in the face of improving Russian air defenses, the alliance may need to develop a longer range air-launched nuclear weapon for deployment on F-35 fighter jets, or more cost-effective ground-based options, as successors to the B61-12 gravity bomb.
In the Indo-Pacific, the regional nuclear cupboard is even more bare. Although B-2 and B-52 bombers stationed in the United States can deliver gravity bombs and long-range, air-launched nuclear cruise missiles to the region, the tyranny of distance reduces the bombers’ effectiveness. To enhance its sea-based regional deterrent, the United States has developed a lower-yield warhead (the W76-2) deployed on Ohio-class Trident ballistic missiles. But these weapons must take the place of higher-yield warheads, reducing the United States’ overall counterforce capabilities, as well as the strength of the survivable second-strike force on which it relies to deter attacks on the homeland.
A promising alternative is to build dedicated regional deterrence capabilities for Asia. In 2023, Congress mandated that the Pentagon develop a lower-yield, sea-launched nuclear cruise missile for U.S. attack submarines. Such a weapon could deter China’s first use or provide a limited escalation option should China attack a U.S. ally. It could also free up the Trident missiles for higher-yield strategic warheads, thus allowing the United States to more effectively target the growing number of Chinese ICBM silos within existing capabilities. The problem is that the new sea-launched cruise missiles may not be ready soon enough. In addition to exploring quicker ways to acquire this capability—such as by pairing lower-yield nuclear warheads with existing Tomahawk missiles on older, Los Angeles–class attack submarines—policymakers should assess the viability of apportioning to the Indo-Pacific some of the future air-launched or ground-based missile systems developed for Europe. Given the long timelines for developing new weapons, the United States needs to anticipate future needs in Asia and Europe now so that it can be ready when the storm hits.
Some allies have begun to question the U.S. nuclear umbrella.
If China or Russia were to escalate a regional conflict beyond Asia or Europe, Washington would have to turn to “central” strategic deterrence to credibly deter a nuclear attack on the U.S. homeland. In a nuclear world in which either China or Russia can test the United States on its own, and in which the two U.S. adversaries could align to do so simultaneously or in rapid succession, a key challenge is figuring out how to deter one without compromising the ability to deter the other. The Biden administration first recognized this problem in its Nuclear Weapons Employment Planning Guidance, a report issued in 2024. This updated guidance directed the Department of Defense to prepare for deterring China, North Korea, and Russia “simultaneously in peacetime, crisis, and conflict.” The broad implication is that Washington needs to deploy not only more warheads but also more systems than originally planned under the modernization program.
To do so amid continued delays, the Biden administration considered near-term options such as uploading additional warheads to Minuteman III ICBMs, which now carry a single warhead apiece; extending the operating lifetime for Ohio-class submarines for several additional years to ensure there is no immediate launcher shortage; and adding more Trident missiles to Ohio-class submarines, which have had four of their 24 missile launchers deactivated, or “capped,” to comply with the expiring New START limits. To avoid the looming launcher cliff in the crucial sea component of its nuclear triad, however, the United States must build a larger number of Columbia-class submarines in the 2040s and beyond—at least 14, and perhaps more, to hedge against the further growth of adversaries’ arsenals.
To be clear, there is no need for the United States to deploy more nuclear forces than those of China and Russia combined. Deterrence is not—and never has been—a function of raw warhead comparisons. The U.S. nuclear stockpile today, for example, is not identical in size or composition to that of Russia, which has a larger number of weapons overall, including its large number of regionally focused, nonstrategic nuclear warheads and delivery systems. Still, to counter the ICBM silos that China is now developing while maintaining deterrence against Russia, the United States will need to consider deploying additional warheads. Precisely how many more is uncertain and will depend largely on the choices adversaries make and on how much risk a president is willing to accept in both the most plausible and worst-case nuclear scenarios.
In response to China’s nuclear expansion, some experts have called for a fundamental shift in U.S. nuclear strategy to avoid having to deploy additional nuclear weapons. According to the current counterforce approach, which in concert with missile defenses seeks to limit damage against allies and the homeland, the United States needs to deploy a sufficient number of nuclear and nonnuclear forces to be able to target adversary nuclear forces. Given the challenge of maintaining this capability against two growing nuclear peers, some strategists advocate shifting to a so-called countervalue approach, in which the United States would not try to target adversaries’ nuclear forces, but would instead target a smaller number of key population centers, infrastructure, and sources of political control and economic wealth. Proponents argue that this strategy shift would require no adjustments to U.S. posture because U.S. submarines, hidden deep beneath the seas, could assuredly retaliate against centers of political power, infrastructure, and population in response to an adversary’s first strike, deterring the attack in the first place.
Military vehicles carrying ballistic missiles during a parade in Beijing, September 2015 Military vehicles carrying ballistic missiles during a parade in Beijing, September 2015 Andy Wong / Reuters
Leaving aside the legal and moral issues of intentionally targeting civilian populations, abandoning the objective—or even the option—of damage limitation would force a U.S. president to expose the American homeland and population to a devastating reprisal. That prospect raises questions about whether a countervalue strategy would effectively deter adversaries and the extent to which it would unnecessarily risk additional American lives—what any U.S. president would value the most. The countervalue approach would also cause allies to question whether the United States would be willing to use nuclear weapons to defend them in a regional war. With American cities under increased nuclear threat, and the United States holding its arsenal in reserve to deter against such attacks rather than to maintain extended deterrence, allies may conclude that they need to seek their own nuclear arsenals. A strategy built for general deterrence of attacks against the U.S. homeland is not credible in an era of extended deterrence, a lesson the United States learned in the 1960s and never revisited, as national leaders then and today correctly prioritized nonproliferation as a key component of nuclear strategy.
In view of these drawbacks, a better approach would be to adapt the current counterforce strategy for the new era. Since counterforce targeting is driven by the composition and not the size of adversaries’ nuclear arsenals, this would require only a modest adjustment to account for China’s growing ICBM silos. Indeed, unless China and Russia choose to increase the size of their own arsenals above what they already plan, the United States should not have to expand its overall existing stockpile of 3,800 or so warheads. But changing the composition of the arsenal will be crucial. This includes assessing the importance of regional nuclear capabilities to deterring local aggression by China and Russia, and analyzing how to prioritize, say, sea-based versus land-based capabilities to fortify strategic deterrence in a world of multiple major nuclear powers, given available forces. For example, although additional Columbia-class submarines may take decades to build, U.S. planners have various ways to use existing forces to rebuild credible deterrence, as the near-term options outlined by the Biden administration make clear. Designed in the right way, even modest short-term and long-term adjustments can maintain credible deterrence against both China and Russia at reasonable cost. But unless the United States is prepared to radically depart from its enduring nuclear strategy—and risk exposing the homeland to nuclear attack and undermining the credibility of its extended deterrence commitments—it will need to deploy more, different, and better nuclear forces. America needs a more flexible and robust arsenal not to fight a nuclear war but to prevent its outbreak.
HURRICANE WATCH
To make its nuclear strategy effective in a world of multiplying threats, Washington can no longer relegate nuclear issues to a small, insulated community of experts. The transformation of the nuclear landscape requires deep engagement from the most senior leaders in government, as occurred during the Cold War. Nothing will enhance the credibility of the extended deterrence the United States offers to allies in Asia and Europe more than a clear demonstration that the country’s most senior leaders are actively preparing for the coming challenges.
To inhibit allies from seeking their own nuclear deterrents and to ensure that U.S. “hardware”—its military capabilities—is fit for purpose, the United States must explicitly reaffirm that its “software”—its political willingness to defend allies with the full range of capabilities—is equally strong. Washington must show that it remains committed to the concept of extended deterrence and that it is determined to make this guarantee credible against new and emerging threats. Previous U.S. efforts in this direction, including during the first Trump administration and the Biden administration, spurred allies to make greater contributions to NATO’s nuclear deterrence mission, including by procuring and deploying more of their own nonnuclear capabilities. Similarly, in the Indo-Pacific, Washington’s efforts to upgrade its extended deterrence relationships with Australia, Japan, and South Korea have helped reaffirm the U.S. nuclear umbrella. These efforts must now be redoubled to avoid a wave of proliferation of Washington’s own making.
In addition to reaffirming extended deterrence, the United States should seek to revive arms control and nuclear risk-reduction efforts, even if today’s environment has made such measures far more difficult. By adjusting its own nuclear posture, the United States could motivate China and Russia to come to the table. If that happens, Washington should tailor agreements to allow for evolving and emerging threats. For example, by permitting a higher warhead ceiling for deployed weapons, an updated New START agreement with Russia could, in theory, maintain mutually stable deterrence between Moscow and Washington while permitting the United States to counter and prioritize the increasing threat from China’s ICBM silos. Because Russia retains a relatively fixed number of strategic nuclear delivery systems, a Russian effort to increase the number of warheads on a given delivery system would be largely immaterial to U.S. strategists: to maintain an effective counterforce deterrent, U.S. Strategic Command would still need to target an unchanged number of Russian delivery systems but would have the required additional warheads available to target Chinese ICBMs.
The United States cannot simply hope that China’s large nuclear expansion might someday be reversed.
Getting the three major nuclear powers to agree to some form of nuclear guardrails across all domains—nonstrategic and strategic nuclear weapons, missile defenses, and space—will be highly complex. To have even a chance of success, any such agreement will need to be innovative and flexible. For example, it might impose warhead limitations on all nuclear weapons states but allow for specific exclusions, including for capabilities that address imbalances in the relative number of warheads, strategic delivery platforms, or other big-ticket items. A model for such an approach might be the 1922 Washington Naval Conference, which limited the overall tonnage of great-power navies with the goal of preventing a naval arms race, but tailored the specific limits to each party’s needs, relationships, and naval status. Regardless of the path taken, American policymakers must urgently craft creative, practical solutions, both formal and informal, to manage a world of multiple nuclear actors that are currently unwilling to negotiate in good faith.
In the decades after the Cold War, many senior U.S. officials hoped that nuclear weapons might recede from global politics entirely. But that prospect turned out to be an illusion. Instead, nuclear weapons are back with a vengeance. To maintain a credible strategy for this new nuclear age, the United States must begin by recognizing and understanding the world as it is—not as many hoped or wished it would be. It will need farsighted analysis by some of the country’s finest strategic minds. It will need to reaffirm American leadership to allies across the world. In no future is the United States safer without its network of allies, regardless of the costs the country must pay to ensure that its security guarantees and extended nuclear deterrent remain credible. And it will require a concerted effort by senior U.S. officials and members of Congress to realign the U.S. arsenal to meet today’s and tomorrow’s threats: the United States cannot simply hope that China’s large nuclear expansion might someday be reversed.
One thing is clear. If the United States does not urgently prepare for the impending nuclear hurricane, it could find itself in a place it has never been: a situation in which China, North Korea, or Russia—acting separately or in concert—uses a nuclear weapon against a U.S. ally or even the U.S. homeland because Washington appears to be unwilling or unable to deter such an attack. The world has never lived through such a storm. For eighty years, U.S. strategists have successfully fought to prevent it from arriving. But it is now coming faster than anyone forecast, and complacency may be deadly.
VIPIN NARANG is Frank Stanton Professor of Nuclear Security and Political Science and Director of the Center for Nuclear Security Policy at the Massachusetts Institute of Technology. From 2022 to 2024, he served as U.S. Principal Deputy and then Acting Assistant Secretary of Defense for Space Policy.
PRANAY VADDI is a Senior Nuclear Fellow at the Center for Nuclear Security Policy at the Massachusetts Institute of Technology. From 2022 to 2025, he served as Senior Director for Arms Control, Disarmament, and Nonproliferation at the National Security Council.
Nhận xét
Đăng nhận xét