708 - Việt Nam sẽ là Đối tác Chiến lược Tiếp theo của Mỹ?

Bởi Alexander L. Vuving
Phạm Nhật Bình lược dịch


Những lần gặp khó khăn thường là lúc của sự thật. Đại dịch COVID-19 đã tạo cơ hội cho mọi người thể hiện cam kết thực sự của họ với bạn bè. Để biết các quốc gia gần gũi như thế nào về mặt địa chính trị và mối quan hệ của họ nồng ấm như thế nào, người ta có thể chỉ cần đếm số lượng các chuyến thăm cấp cao hoặc số lượng vắc xin COVID-19 được tặng giữa họ.

Nếu các chỉ số này có điều gì đó để nói lên điều gì đó, thì Việt Nam là nước gần nhất với Hoa Kỳ - và xa Trung Quốc nhất - trong tất cả các nước Đông Nam Á. Hoa Kỳ và Việt Nam đã tiến hành ba chuyến thăm cấp cao kể từ khi bắt đầu đại dịch COVID-19 vào đầu năm 2020 - và con số sẽ sớm là bốn. Ngoại trưởng Mỹ lúc bấy giờ là Mike Pompeo đã đến Việt Nam vào tháng 10 năm 2020, tiếp theo là Cố vấn An ninh Quốc gia Robert O'Brien vào tháng 11. Tháng trước, Bộ trưởng Quốc phòng Hoa Kỳ Lloyd Austin đã đến Việt Nam trong chuyến công du ba nước Đông Nam Á bao gồm Singapore và Philippines. Phó Tổng thống Hoa Kỳ Kamala Harris sẽ đến Việt Nam vào thứ Ba 24/8 trong chuyến công du đầu tiên của bà tới châu Á.

Đã có hai chuyến thăm cấp cao giữa Trung Quốc và Việt Nam trong cùng một khoảng thời gian. Bộ trưởng Bộ Công an Trung Quốc Zhao Kezhi đã đến Việt Nam vào tháng 2 năm 2021, tiếp theo là Bộ trưởng Quốc phòng Wei Fenghe vào tháng 4. Đáng chú ý nhất, kể từ khi đại dịch bắt đầu, Bộ trưởng Ngoại giao Trung Quốc Vương Nghị và Ủy viên Quốc vụ Dương Khiết Trì đã đến thăm tất cả các quốc gia thành viên của Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), ngoại trừ Việt Nam.

Việc tặng vắc-xin COVID-19 cũng có thể đo lường sự ấm áp giữa các quốc gia. Tính đến nay Trung Quốc đã viện trợ cho Việt Nam, đất nước gần 100 triệu dân, tổng số 700.000 liều, trong đó 500.000 liều ưu tiên cho công dân Trung Quốc, cư dân các tỉnh giáp Trung Quốc, du khách Việt Nam sang Trung Quốc, 200.000 liều cho nhân dân Việt Nam. Để so sánh, Trung Quốc đã cho Lào, quốc gia 7 triệu dân, gần 3 triệu liều . Đối với Việt Nam, cho đến nay Hoa Kỳ là nhà tài trợ lớn nhất, với 5 triệu liều thuốc được trao làm quà tặng .

Nhưng những dấu hiệu này trái ngược với các chỉ định chính thức về các mối quan hệ của chúng. Việt Nam gọi 14 nước là “đối tác chiến lược” và 3 nước khác - Trung Quốc, Nga và Ấn Độ - là “đối tác chiến lược toàn diện”. Với tư cách là một “đối tác toàn diện”, Hoa Kỳ đứng ở cấp độ thấp hơn, cùng với Argentina, Đan Mạch và Hungary . Tại sao có sự khác biệt?

Mối quan hệ giữa Washington và Hà Nội là một trong những mối quan hệ mỏng manh nhất và tinh tế nhất trên thế giới. Những ký ức lịch sử, sự khác biệt về ý thức hệ, và mối quan tâm trong nước thường làm cho mọi thứ không thể diễn tả được trong mối quan hệ đang phát triển này. Nhưng yếu tố lớn nhất khiến mối quan hệ Việt - Mỹ trở nên mỏng manh và khó hiểu là Trung Quốc. Đó cũng là yếu tố quan trọng tạo nên và không thay đổi cục diện chiến lược của mối quan hệ Việt - Mỹ.

Để xoa dịu Trung Quốc, chính quyền Carter đã tạm hoãn quá trình bình thường hóa với Việt Nam vào năm 1978, giúp trì hoãn quá trình bình thường hóa cho đến sau Chiến tranh Lạnh. Đến đầu những năm 2000, khi chính quyền George W. Bush coi Việt Nam là một đối tác chiến lược tiềm năng vì coi Trung Quốc là một đối thủ cạnh tranh chiến lược tiềm tàng. Năm 2008, theo lời mời của Washington, Việt Nam tham gia đàm phán Hiệp định Đối tác Xuyên Thái Bình Dương, một nhóm được cho là đối trọng quan trọng đối với sức mạnh kinh tế của Trung Quốc.

Hoa Kỳ chính thức đề nghị quan hệ đối tác chiến lược với Việt Nam vào tháng 7 năm 2010 khi Ngoại trưởng Hillary Clinton gặp các nhà lãnh đạo Việt Nam tại Hà Nội. Bà đến tham dự một cuộc họp của Diễn đàn Khu vực ASEAN (ARF). Tại đó bà tuyên bố các lợi ích quốc gia của Hoa Kỳ trong tự do hàng hải, quyền tiếp cận rộng rãi với các hành vi hàng hải của châu Á và tôn trọng luật pháp quốc tế ở Biển Đông. Đến Hà Nội một lần nữa vào tháng 7 năm 2012, bà đã dành cho Việt Nam một trong những sự ủng hộ công khai mạnh mẽ nhất trong mối thù với Trung Quốc về Biển Đông. Bà cũng mời Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN) Nguyễn Phú Trọng, người không có người đồng cấp ở Hoa Kỳ, đến Washington vào năm tới.

Điều này đã làm dấy lên một cuộc tranh luận lớn trong giới lãnh đạo Việt Nam. Trong khi các nhà lãnh đạo chủ trương hội nhập mong muốn mở rộng hợp tác với siêu cường phương Tây, thì những người chống phương Tây lại lo lắng rằng điều này sẽ làm xói mòn quyền cai trị của Đảng Cộng sản.

Vào tháng 12 năm 2012 nhân kỷ niệm ngày Giáng sinh 1972 của Mỹ ném bom Hà Nội, Bộ trưởng Quốc phòng Việt Nam Phùng Quang Thanh cảnh báo rằng Washington có thể xâm lược đất nước một lần nữa “khi có cơ hội”. Năm sau, chính Chủ tịch nước Trương Tấn Sang, chứ không phải đảng trưởng Nguyễn Phú Trọng đã đến Hoa Kỳ. Và tại chuyến thăm của ông, hai nước đã nâng quan hệ lên “quan hệ đối tác toàn diện”, thấp hơn mức “chiến lược”.

Trung Quốc đã vượt qua lằn ranh đỏ của Hà Nội để đẩy Việt Nam vượt qua lằn ranh đỏ tự đặt ra trong quan hệ với Hoa Kỳ. Khi Trung Quốc hạ đặt giàn khoan dầu khổng lồ HYSY-981 trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam (EEZ) trong 75 ngày vào mùa hè năm 2014, quan hệ giữa hai nước Cộng sản đã giảm xuống mức thấp nhất kể từ khi họ có thái độ thù địch công khai vào những năm 1980. Một lần nữa, Hoa Kỳ ra mặt với sự ủng hộ mạnh mẽ đối với Việt Nam. Nó cũng phù hợp với lời nói với hành động dỡ bỏ lệnh cấm bán vũ khí hàng hải cho Hà Nội . Cuộc khủng hoảng giàn khoan dầu đã được chứng minh là một thử thách đáng tiếc và là một yếu tố thay đổi cuộc chơi. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử, Cộng sản Việt Nam tin tưởng Washington hơn là tin tưởng Trung Quốc Cộng sản. Kể từ đó, các nhà lãnh đạo quân sự của Việt Nam đã ngừng nâng cao triển vọng về một cuộc chiến tranh của Hoa Kỳ chống lại Việt Nam.

Khi Tổng Bí Thư Đảng CSVN Nguyễn Phú Trọng đến thăm Nhà Trắng vào tháng 7 năm 2015, Việt Nam muốn thêm thuộc tính “sâu rộng” vào “quan hệ đối tác toàn diện”, một bằng sáng chế bắt chước “quan hệ đối tác chiến lược sâu rộng” mà Nhật Bản và Việt Nam đã công bố vào tháng 3 năm 2014. Kế hoạch này không được thông qua, có lẽ vì Washington không muốn đi nửa bước. Nhưng lòng tin giữa hai cựu thù đã được củng cố rất nhiều. Năm tiếp theo, sự tin cậy song phương lại tiếp tục được thúc đẩy khi Tổng thống Barack Obama thăm Việt Nam. Và trước chuyến công du, Obama đã chấm dứt hoàn toàn lệnh cấm vận vũ khí của Mỹ đối với Việt Nam kể từ năm 1975.

Trong khi đó, Trung Quốc tăng cường xâm phạm vùng biển Việt Nam. Sau khi xây dựng các đảo nhân tạo lớn ở Trường Sa, Bắc Kinh tiếp tục quấy rối hoạt động thăm dò khí đốt ngoài khơi của Việt Nam, buộc Hà Nội phải hủy bỏ các dự án mới và trả giá đắt cho việc phá vỡ hợp đồng . Đến năm 2018, Bộ Chính trị Việt Nam đã thông báo về việc chuẩn bị nâng quan hệ với Hoa Kỳ lên quan hệ đối tác chiến lược chính thức. Theo kế hoạch, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng sẽ thăm Tổng thống Donald Trump vào cuối năm 2019 và hai người sẽ công bố quan hệ mới. Nhưng do vấn đề sức khỏe của Trọng, chuyến đi của ông ta bị hoãn vô thời hạn.

Khi Nhà Trắng thay đổi tổng thống vào tháng 1 năm 2021, một sự không chắc chắn mới đã bao trùm các kế hoạch cũ. Đang ở giai đoạn cuối của việc Trung Quốc ngày càng gây hấn ở Biển Đông, Việt Nam nuôi hy vọng nâng cấp quan hệ Việt - Mỹ. Nhiều lần, các nhà ngoại giao cấp cao của Việt Nam đã công khai lưu ý rằng quan hệ đối tác song phương đã mang tính “chiến lược” mặc dù trên danh nghĩa là “toàn diện”.

Chính quyền Biden cũng bày tỏ mong muốn có quan hệ đối tác chiến lược với Việt Nam. Trong bản Hướng dẫn Chiến lược An ninh Quốc gia công bố vào tháng 3 năm 2021, tên Việt Nam là một trong số ít quốc gia mà Washington sẽ tập trung vào “làm sâu sắc thêm quan hệ đối tác của chúng tôi ... để thúc đẩy các mục tiêu chung.”

Phát biểu trước Thượng viện vào ngày 13 tháng 7, người được Tổng thống Joe Biden đề cử làm đại sứ tiếp theo tại Việt Nam, Marc Knapper, cho biết: “Hiện tại, chúng ta có cái mà chúng tôi gọi là quan hệ đối tác toàn diện; chúng tôi hy vọng sẽ nâng tầm quan hệ này lên thành quan hệ đối tác chiến lược và tôi sẽ thực hiện các bước để thực hiện điều đó bằng cách tăng cường hơn nữa mối quan hệ an ninh của chúng tôi với Việt Nam ”. Hai tuần sau, các nhà lãnh đạo Việt Nam có thể nghe trực tiếp ý định này của Hoa Kỳ từ chuyến thăm Bộ trưởng Quốc phòng Austin. Động lực hiện đang được thiết lập để hai nước công bố quan hệ đối tác chiến lược đã quá hạn lâu dài của họ vào lần tiếp theo các nhà lãnh đạo cấp cao nhất của họ gặp mặt trực tiếp.

Trong một kế hoạch rộng lớn, sự cạnh tranh chiến lược giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc và giữa Việt Nam và Trung Quốc tiếp tục hội tụ. Cả Hoa Kỳ và Việt Nam đều nằm trong số các quốc gia cam kết ngăn chặn sự thống trị của Trung Quốc ở Đông Nam Á. Cả hai đều mong muốn duy trì một trật tự quốc tế dựa trên luật lệ ở Biển Đông. Và cả hai đều quan tâm đến việc tái cấu trúc chuỗi cung ứng quốc tế để giảm sự phụ thuộc quá mức vào thị trường Trung Quốc.

Một liên minh chiến lược giữa Hoa Kỳ và Việt Nam là kết quả hợp lý của sự hội tụ này. Việc chỉ định chính thức của nó quan trọng vì nó hệ thống hóa cam kết và giúp phối hợp trong nước và song phương, nhưng nó sẽ tụt hậu so với thực tế không chính thức vì nhu cầu giảm thiểu sự e ngại của Trung Quốc. Mức độ của sự tụt hậu phụ thuộc chủ yếu vào cường độ của các cuộc cạnh tranh.

Nhìn về tương lai, khi những đối thủ này chắc chắn sẽ phát triển, quan hệ Việt - Mỹ có thể được nâng lên thành “quan hệ đối tác chiến lược toàn diện” trong vòng một thập kỷ.


Alexander L. Vuving
Alexander L. Vuving là giáo sư tại Trung tâm Nghiên cứu An ninh Châu Á - Thái Bình Dương của Daniel K. Inouye.

Nguồn:
https://apcss.org/will-vietnam-be-americas-next-strategic-partner/

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

3028 - Phản ứng của các chuyên gia: Israel vừa tấn công các cơ sở hạt nhân và quân sự của Iran. Tiếp theo là gì?

2236 - Kẹt xe ở Việt Nam từ một nghị định gây phẫn nộ

2993 - Tổng thư ký NATO Mark Rutte cảnh báo Nga có thể sử dụng vũ lực chống lại liên minh trong năm năm