7481 - Lựa chọn vũ khí của Trung Quốc tại Đài Loan
Chihwei Yu
Bản dịch của Google
Trong khi Trung Quốc không từ bỏ khả năng sử dụng các hoạt động quân sự để giải quyết xung đột giữa Đài Bắc và Bắc Kinh, họ cũng thừa nhận khả năng can thiệp từ Hoa Kỳ và chi phí cao cho các hoạt động quân sự. Thay vào đó, chính sách ưu tiên của Bắc Kinh là tìm kiếm sự thống nhất bằng cách loại bỏ sự phản kháng bên trong Đài Loan.
Khi Ủy ban Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc thành lập Văn phòng Công tác Đài Loan (TWO) vào đầu những năm 1980, họ đã chọn những quan chức có chuyên môn về công tác mặt trận thống nhất và thu thập thông tin tình báo. Nhiều người trong số họ có quan hệ cá nhân hoặc người thân ở Đài Loan. Điều này đã dẫn đến một sự phụ thuộc vào con đường mà công tác mặt trận thống nhất vẫn là một phần quan trọng trong chính sách Đài Loan của Trung Quốc.
Gần đây, một số báo cáo đã gây ra các cuộc tranh luận có những điểm tương đồng với những gì ĐCSTQ đã làm trong những năm 1940, khi những người Cộng sản lan truyền thông tin sai lệch và tin tức giả mạo để đè bẹp tinh thần của đối thủ. Song song với áp lực quân sự, nỗ lực này có thể làm tăng khả năng ĐCSTQ giải quyết cuộc xung đột Đài Loan một cách hòa bình, khi các đối thủ của họ trở nên chia rẽ và Trung Quốc dễ dàng thành lập các tổ chức phù hợp với chính sách của họ.
Trước khi “ Thông điệp gửi đồng bào ở Đài Loan ” được công bố vào ngày đầu năm mới 1979, Trung Quốc đã coi quan hệ hai bờ eo biển là trong tình trạng chiến tranh. Quân đội Giải phóng Nhân dân (PLA) vẫn bắn phá Kim Môn cho đến ngày đó (cũng đánh dấu sự bình thường hóa quan hệ Trung Quốc-Hoa Kỳ).
Là một phần của cách tiếp cận đã thay đổi, ĐCSTQ đã quyết định thành lập Văn phòng Công tác Đài Loan để xử lý các vấn đề xuyên eo biển. Tuy nhiên, nó gặp khó khăn trong việc tìm kiếm những người hiểu các vấn đề Đài Loan, ngoài các thành viên trong PLA, hệ thống tình báo và đối ngoại.
Vào đầu những năm 1980, khi ĐCSTQ tái lập Nhóm lãnh đạo trung ương về các vấn đề Đài Loan (CLGTA) và TWOC, nó đã chọn các thành viên từ Bộ Ngoại giao, PLA, Bộ An ninh Quốc gia và Ban Công tác Mặt trận Thống nhất. Ví dụ, Deng Yingchao và Liao Chengzhi, cả hai đều từng là thứ trưởng của Bộ Công tác Mặt trận Thống nhất, là lãnh đạo của CLGTA vào đầu những năm 1980. Luo Qingchang, một nhân viên tình báo trong Nội chiến Trung Quốc, là phó giám đốc được khẳng định của CLGTA từ năm 1979 đến năm 1983. Ngoài các quan chức cấp cao, các quan chức cấp dưới được tuyển dụng vào những năm 1980 cũng có khuynh hướng tương tự. Ví dụ, Sun Yafu, phó giám đốc của TWOC từ năm 2004 đến 2013, đã làm việc trong Ủy ban các vấn đề về người Hoa ở nước ngoài của Đại hội đại biểu nhân dân toàn quốc trước khi gia nhập TWOC vào năm 1990.
Các thành viên TWOC này đã được chọn vì những lý do cụ thể và thiết thực. Trước năm 1978, chỉ một số ít người được phép truy cập tin tức hoặc câu chuyện về Đài Loan một cách hợp pháp.
Các quan chức trước đây từng làm việc trong Ban Công tác Mặt trận Thống nhất có mối liên hệ cá nhân hoặc thậm chí có quan hệ huyết thống với giới tinh hoa chính trị ở Đài Loan, những người đã trở thành đòn bẩy hoặc công cụ của Trung Quốc trong chính sách Đài Loan. Ví dụ, trong những năm 1980 và đầu những năm 1990, các tỉnh phía đông nam, đặc biệt là Phúc Kiến, Quảng Đông và Giang Tô, đã thành lập các công ty mà đại diện là người thân ở Đài Loan để thu hút đầu tư.
Nền tảng của TWOC ngụ ý rằng kinh nghiệm của họ với công tác mặt trận thống nhất sẽ đóng một vai trò quan trọng trong việc định hình chính sách Đài Loan của Trung Quốc. Do đó, điều cần thiết là Đài Bắc và các đồng minh của họ phải xem xét cách tiếp cận của ĐCSTQ đối với công tác mặt trận thống nhất.
Lịch sử vũ khí hóa tin tức giả lâu đời của ĐCSTQ
ĐCSTQ có một lịch sử lâu dài về việc sử dụng tin giả như một phần của công tác mặt trận thống nhất của họ. Ví dụ, sau Sự kiện Nam An Huy năm 1941 – khi trận chiến giữa lực lượng Quốc dân Đảng (KMT) và ĐCSTQ làm đảo lộn thỏa thuận đình chiến khó khăn của họ – ĐCSTQ thúc giục Quốc dân đảng chịu trách nhiệm hoàn toàn, trong khi Quốc dân đảng lập luận rằng quân đội của ĐCSTQ đã không tuân theo sự đồng thuận chung của họ . Tuy nhiên, nghiên cứu do nhà sử học người Anh Jonathan Fenby thực hiện cho thấy rằng vụ việc là do sự chậm trễ có chủ ý trong việc chuyển thông điệp từ Quốc dân đảng tới quân đội ĐCSTQ, do xung đột chính trị trong ĐCSTQ.
Một khía cạnh quan trọng khác trong công tác mặt trận thống nhất của ĐCSTQ là hoạt động bí mật, bao gồm việc thiết lập các liên hệ mạng nhện xung quanh các đặc vụ của họ, tập hợp các cộng tác viên sẵn sàng và phát triển các tổ chức. Tác phẩm của Guo Moruo trong khoảng thời gian từ 1940 đến 1945 là một ví dụ điển hình cho chiến thuật này. Với tư cách là chủ tịch Hiệp hội Quản lý Văn hóa của Quốc Dân Đảng, Guo đã thành lập một tổ chức bảo trợ cho các nghệ sĩ cánh tả. Điều này cho phép ĐCSTQ chiêu mộ được nhiều người ủng hộ, những người đóng vai trò quan trọng trong việc tuyên truyền trong Nội chiến Trung Quốc.
Mục đích của việc thao túng thông tin sai lệch là phát triển các tổ chức đồng cảm và làm xói mòn niềm tin trong xã hội, giảm bớt sự ủng hộ dành cho chính quyền đối phương. Trong chiến tranh, ĐCSTQ không chỉ chỉ trích chế độ chính trị và chính sách của Quốc Dân Đảng mà còn tuyên bố đại diện cho dân chủ và tiến bộ. Những nỗ lực này đã trở thành nền tảng để ĐCSTQ tuyển dụng thêm nhiều người ủng hộ từ bên trong Quốc Dân Đảng
Chính sách Đài Loan của Trung Quốc và thông tin sai lệch ngày nay
Việc sử dụng tin tức giả mạo và thao túng thông tin sai lệch là một thực tế phổ biến trong chính sách Đài Loan của Trung Quốc kể từ cuối những năm 1980. Một bước ngoặt xảy ra giữa năm 2008 và 2016, khi các tương tác và trao đổi giữa Đài Loan và Trung Quốc tăng lên. Sự gia tăng các tương tác này cho phép Trung Quốc tìm được các đại lý mới và thiết lập các mối liên hệ giữa ĐCSTQ và các đại lý địa phương.
Như Institut de Recherche Stratégique de l' Ecole Militaire (IRSEM) đã lập luận trong báo cáo năm 2021 của họ , các doanh nghiệp truyền thông Đài Loan đã buộc phải xem xét nội dung của họ để tuân thủ các chính sách của Trung Quốc và tuân theo chỉ thị của TWOC để bảo vệ các khoản đầu tư và lợi nhuận của họ.
Bối cảnh của công tác mặt trận thống nhất và thông tin sai lệch như một công cụ của ĐCSTQ giúp chúng ta hiểu được hai báo cáo gần đây về chính sách Đài Loan của Hoa Kỳ đã gây ra một cuộc tranh luận ở Đài Loan. Báo cáo đầu tiên cáo buộc rằng Tổng thống Hoa Kỳ Joe Biden đã nói “Hãy đợi cho đến khi bạn thấy kế hoạch hủy diệt Đài Loan của chúng tôi,” trong khi báo cáo thứ hai liên quan đến một cuộc thảo luận trên một số diễn đàn địa phương về một bài báo có tiêu đề “ Tổ ấm vỡ: Răn đe Trung Quốc xâm lược Đài Loan ”. Theo các cuộc thảo luận, báo cáo của Hoa Kỳ đề xuất phá hủy khả năng sản xuất chất bán dẫn của Đài Loan để ngăn chặn một cuộc xâm lược của Trung Quốc – và ngăn chặn Trung Quốc sở hữu các cơ sở đó trong trường hợp tiếp quản thành công.
Những báo cáo này đã khiến người Đài Loan nghi ngờ về ý định của Hoa Kỳ, đặc biệt là khi Công ty Sản xuất Chất bán dẫn Đài Loan (TSMC) đang thành lập một nhà máy mới ở Arizona, đồng thời tần suất và cường độ của các hoạt động quân sự của PLA xung quanh Đài Loan đang gia tăng. Các sự cố trên được cố tình diễn giải để gợi ý rằng Hoa Kỳ sẽ tiếp quản TSMC và để Đài Loan bị phá hủy.
Tuy nhiên, sau khi kiểm tra kỹ hơn các nguồn và ngôn ngữ được sử dụng trong các báo cáo này, một tường thuật khác xuất hiện. Báo cáo về “kế hoạch hủy diệt Đài Loan” bị cáo buộc của Biden bắt nguồn từ một dòng tweet của Garland Nixon, người dẫn chương trình phát thanh cho Đài Sputnik ở Nga, và được coi là một trò đùa, theo Trung tâm Kiểm tra Thông tin Đài Loan . Bản thân Biden chưa bao giờ thực sự đưa ra nhận xét. Người đầu tiên ở Đài Loan lan truyền thông điệp này cũng được biết đến là một chính trị gia thân Trung Quốc.
Trong trường hợp thứ hai, báo cáo bằng tiếng Trung ban đầu tập trung vào “Tổ ấm vỡ” chứa ngôn ngữ được viết bằng tiếng Trung giản thể , vốn không được sử dụng phổ biến ở Đài Loan. Báo cáo cũng sử dụng các từ và cụm từ cụ thể không được sử dụng phổ biến ở Đài Loan.
Kể từ Nội chiến Trung Quốc, ĐCSTQ đã sử dụng chiến lược bóp chết tinh thần của đối thủ thông qua tin tức giả mạo và thông tin sai lệch. Đây vẫn là một thành phần quan trọng trong chính sách Đài Loan của họ ngày nay. Các báo cáo được trích dẫn ở trên, dường như bắt nguồn từ một chiến dịch thông tin sai lệch, có thể khiến người Đài Loan nghi ngờ cả Hoa Kỳ và chính phủ của họ. Các sự kiện hiện tại – sự hiện diện hàng ngày của máy bay và tàu PLA ở eo biển Đài Loan và khoản đầu tư mới của TSMC vào Mỹ – làm tăng độ tin cậy của thông tin sai lệch.
ĐCSTQ muốn chinh phục Đài Loan như thế nào?
Khi xem xét lý lịch cá nhân của các thành viên TWOC trong những năm 1980 và 1990, có vẻ như Trung Quốc thích công tác mặt trận thống nhất hơn là các hoạt động quân sự để đạt được sự thống nhất với Đài Loan. Nếu giả định này đúng, chúng ta có thể đưa ra giả thuyết về một kịch bản có thể xảy ra khi tin giả được lan truyền để làm mất tính hợp pháp của chính phủ và tạo ra sự ngờ vực giữa các nhóm xã hội. Rút kinh nghiệm của ĐCSTQ trong Nội chiến Trung Quốc, bước tiếp theo sẽ là phát triển các tổ chức thân thiện trong lòng các đối thủ. Áp lực quân sự sẽ tăng lên trong các bước này, dẫn đến các cuộc đàm phán được bao trùm bởi “các cuộc đàm phán hòa bình” như đã thấy ở Bắc Bình vào năm 1948 và 1949.
Tuy nhiên, kịch bản này không loại trừ khả năng xảy ra xung đột vũ trang ở eo biển Đài Loan. Trên thực tế, các hoạt động quân sự có thể cần thiết để ĐCSTQ tiến hành công việc mặt trận thống nhất của họ, vì áp lực tiêu cực có thể thuyết phục hơn là sự lôi kéo tích cực. Tuy nhiên, thống nhất Đài Loan thông qua các biện pháp hòa bình sẽ tiết kiệm chi phí và mang lại nhiều lợi ích hơn so với thông qua các hoạt động quân sự.
Chihwei Yu
Chihwei Yu là phó giáo sư tại Khoa Công an, Đại học Cảnh sát Trung ương, Đài Loan, Trung Hoa Dân Quốc, và là nghiên cứu viên phụ trợ tại Viện Nghiên cứu Chính sách Quốc gia (INPR).
https://thediplomat.com/2023/03/chinas-weapon-of-choice-in-taiwan/
Nhận xét
Đăng nhận xét