1688 - Trên đỉnh Núi Sam
Năm 1967, Tư là một thiếu uý quèn từ Tiểu Đoàn 72 Pháo Binh ở xã Bình Đức Mỹ Tho thuyên chuyển về Tiểu Đoàn 92 Pháo Binh ở Cái Tàu Hạ, Sa Đéc. Nhờ đó mới biết Sa Đéc có Cái Tàu Hạ mà cũng có Cái Tàu Thượng mặc dầu hai "Cái" không gần nhau mấy. Từ một quan sát viên đi mây về gió trên L19 Tư về đi đề-lô cho Pháo Đội B của Trung Úy Nguyễn An Cảnh, Pháo Đội Trưởng đồng thới là Sĩ Quan Liên Lạc Tiểu Khu Châu Đốc.
Một hôm có dịp cùng Pháo Đội Trưởng từ chân Núi Sam (Châu Đốc) chạy xe theo con đường ngoằn ngoèo lên đến đỉnh núi, ghé thăm một trung đội pháo binh 105 ly cơ hữu của Pháo Đội B đóng trên đây.
Nơi đây thật là một vị trí lý tưởng để phóng tầm mắt nhìn bao quát một vùng biên giới Việt Miên trong nắng sớm. Xa xa, kinh Vĩnh Tế hiện ra như một con rắn bạc hiền hòa với những xóm làng thưa thớt kéo dài đến tận chân trời.
Kinh Vĩnh Tế là con kinh đào dọc theo biên giới Tây Nam giữa Việt Nam và Cambodge, từ Châu Đốc đến địa phận Hà Tiên, rồi đổ ra vịnh Thái Lan. Con kinh đào bằng tay, khởi công từ năm 1819, hoàn thành năm 1824 dưới triều vua Minh Mạng. Với chiều dài hơn 87 km, có lúc huy động đến 55,000 nhân công trong suốt 5 năm dài, kinh Vĩnh Tế đã để lại một dấu ấn khó phai mờ trong thời kỳ người dân Nam khai hoang lập ấp, xác lập chủ quyền đất nước đến tận mũi Cà Mau.
Chính trong tầm nhìn xây dựng và bảo vệ tổ quốc, trước khi khởi công vua Gia Long đã nói "Công trình đào sông này rất là khó khăn, nhưng kế giữ nước và cách biên phòng quan hệ chẳng nhỏ, chúng người tuy rằng ngày nay chịu khó, nhưng mà ích lợi cho muôn đời về sau...". Gần hai trăm năm sau, chưa có người dám nói nhà vua nói không đúng.
Người gắn bó tên tuổi mình với kinh Vĩnh Tế là ông Nguyễn Văn Thoại hay Nguyễn Văn Thụy (1761-1829) còn gọi là Thoại Ngọc Hầu hay Bảo hộ Thoại, một danh tướng, một đại công thần đầu triều Nguyễn. Ông đã 7 lần sang Xiêm La, 2 lượt sang Lào và 11 năm giữ trọng trách bảo hộ Cao Miên (tức Campuchia ngày nay).
Hầu là tước phong của ông, còn “Bảo hộ” là do ông là người đưa Nặc Ông Chân về làm vua Cao Miên năm 1813 và ở lại giữ nhiệm vụ bảo hộ nước này. Đây là một giai đoạn lịch sử chính trị hiếm có của triều Nguyễn trong cố gắng loại trừ ảnh hưởng của Xiêm La (Thái Lan) đối với Cao Miên để tiếp tục “tây tiến”. Nhưng tham vọng mở rộng lãnh thổ của Việt Nam đã bị chận lại khi người Pháp đặt nền cai trị trên ba nước Đông Dương.
Ngoài con kinh Vĩnh Tế mang tên người vợ ông (Châu Thị Tế), Thoại Ngọc Hầu còn là người có công đào con kinh nối Long Xuyên với Rạch Giá là kinh Thoại Hà. Tên ông còn được đặt cho một hòn núi nhỏ ở đó: Thoại Sơn.
Trong mùa nước nổi, kinh Vĩnh Tế chìm trong làn nước bạc mênh mông. Nhưng từ những cánh đồng bạt ngàn vùng biên giới, bông điên điển vươn lên nở vàng bên cạch sắc trắng của bông súng, gợi nhớ đến sức sống mãnh liệt của những con người đầu đội trời chân đạp đất tiến về phương Nam.
Ra đi gặp vịt cũng lùa
Gặp duyên cũng kết, gặp chùa cũng tu!
Sáng hôm ấy, đứng trên đỉnh Núi Sam nhìn giòng kinh Vĩnh Tế ngút ngàn, mới thấy công lao mở mang bờ cõi của tiền nhân ta thật là vĩ đại.
Noi gương tiền nhân, trước năm 1975 các chiến sĩ Quân Lực VNCH thuộc Vùng IV Chiến Thuật đã xả thân gìn giữ, bảo vệ từng tấc đất ngọn rau của tổ tiên gầy dựng, đem lại đời sống ấm no hạnh phúc cho toàn dân.
Nhận xét
Đăng nhận xét